➔ Download MP3
,
- KHAI THỊ NGHIỆP DÂM DỤC - VÀ THÙ DÂM Ấn Quang Đại Sư 02:28:28
- KHAI THỊ VỀ NGUY HẠI CỦA THỦ DÂM - quả báo thủ dâm rất nguy hại 01:28:47
➔ Download PDF
➔ Download PDF
➔ Download PDF
THỌKHANG BẢO GIÁM"Hãy nên lấy Thọ Khang Bảo Giám làm sách giữgìn tánh mạng cho con em đã hiểu chuyện đời.Chẳng những thanh niên phải nên xem, ngay cảngười già cũng nên đọc. Muốn con em đượctrường thọ phải hoàn toàn cậy vào người caotuổi thường nói đến chuyện họa - phước."Ấn Quang Ðại Sư(1862-1940)Thọ Khang Bảo GiámBộ sách này rất cần thiết cho giới trẻ hiện thời. Bởi đờisau, chẳng những đạo luật của quốc gia không hề đề cập đến,ngay cả cha mẹ đối với con cái của mình cũng không giảngnói đạo lý giới-dâm bảo toàn sanh mạng, khiến cho rất nhiềuthanh thiếu niên bởi vì vô tri tham dâm mà đoạn mất đi tánhmạng quý giá. Quả thực đáng buồn! Hy vọng khi mọi ngườigặp được quyển sách này, đọc tỉ mỉ cũng như triển khai lưuthông, thường xuyên cảnh tỉnh bản thân và khuyên bảonhững người xung quanh mình. Nếu như không mangnhững đạo lý này nhắc nhở người đời, tức thời lỡ mất côngtừ bi cứu độ của Phật [như lai] vậy!Đôi lời bày tỏhttps://bothiphap.blogspot.com/Ấn Quang đại sưtăng đínhChuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa(theo bản in của Giai Phương Ấn Loát Hữu Hạn Công Ty, năm 1991)Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ TrangĐại sư Ấn Quang sinh ngày 11 tháng 1 năm 1862, mất ngày 2 tháng 12 năm 1940, đượctôn xưng là Tổ thứ 13 của Tịnh độ tông Trung Hoa, có nhiều cống hiến quan trọng trongviệc chấn hưng Phật giáo tại Trung Hoa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng. Đại sưở nhiều tác phẩm khác cũng thường ký tên là Cổ Tân Thường Tàm Quý Tăng Thích ẤnQuang (古莘常惭愧僧释印光). Ngài biết trước ngày viên tịch, cho mời bốn chúng đệ tử cùngtụ tập và hết lời khuyên dạy phải tin sâu pháp môn niệm Phật. Sau đó ngài ngồi xuốngtrong tư thế kiết già, cùng đại chúng niệm Phật trong chốc lát rồi an nhiên viên tịch. Ngườiđương thời tin rằng ngài là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí.THỌ KHANGBẢO GIÁMLỜI MỞ ĐẦUCon người từ sắc dục mà sanh, cho nên tập khí này đặc biệtsâu đậm. Hễ không kiêng dè cẩn thận, phần nhiều sẽ đến nỗi chếtvì sắc dục! Các bậc thánh vương thời cổ vì yêu thương dân, chonên đối với chuyện vợ chồng ân ái, chẳng tiếc công sai quantruyền lệnh, dùng linh gỗ đi khắp các nẻo đường, ngõ hầu ngườidân khỏi phải sầu lo vì trót lầm lẫn mà mất đi tánh mạng. Lòngtừ ái ấy đúng là khôn xiết! Cho đến đời sau, không chỉ chánhlệnh của nước nhà chẳng còn nhắc đến, ngay cả cha mẹ cũngchẳng bảo ban con cái, đến nỗi đại đa số thiếu niên do lầm lạcmà mất đi tánh mạng, đáng buồn quá sức! Bất Huệ sống trên cõiđời mấy chục năm, thấy nghe khá nhiều, khôn ngăn bi thương!Do vậy, quyên mộ in cuốn sách này để mong những người cùnghàng đều được sống lâu, mạnh khỏe. Mong sao những người cóđược cuốn sách này, ai nấy đều đọc kỹ, xoay vần lưu thông, đừngđể phí tâm tư, tiền tài, mà trọn chẳng được mảy may lợi ích thậtsự nào, thì may mắn lắm thay!Mỗi người đều hy vọng bản thân và con cái khỏe mạnhtrường thọ, hạnh phúc mỹ mãn. Nhưng nếu như trong nhữngchuyện sắc dục này không biết kiêng kỵ, không biết tiết-chế,không biết thận trọng. Tức thời chỗ hy vọng và đạt được sẽ hoàntoàn trái ngược nhau. Há chẳng đáng buồn, đáng đau xót ư! Chonên Khổng Tử nói: “Thời kỳ thiếu niên, huyết khí chưa định,không được phép phạm sắc-dục”. Mạnh Tử nói: “Phương phápdưỡng tâm tốt nhất không gì qua được thiểu dục (ít dục). Ngườiít dục tuy cũng có đoản thọ, nhưng rất ít; người nhiều dục tuycũng có trường thọ nhưng cũng rất ít.” Vì vậy có thể nói, sinh tửtồn vong của con người quá nửa quyết định bởi lòng dâm dụcnhiều hay ít. Bất huệ [Ấn Quang] tôi tuy chẳng có năng lực cứuthế, nhưng lại thường hy vọng thế nhân đều có thể khỏe mạnhsống lâu, bèn bổ sung hiệu đính và biên tập đồng thời khắc bảnTrong thiên Nguyệt Lệnh sách Lễ Ký có chép: “Quý Xuân, tiên lôi tam nhật, tù nhân dĩmộc đạc, tuần vu đạo lộ, viết: - Lôi tương phát thanh, hữu bất giới kỳ dung chỉ giả, sanhtử bất bị, tất hữu hung tai” (Cuối Xuân, trước khi sấm động ba ngày, viên quan truyềnlệnh liền khua linh gỗ, đi khắp các nẻo đường truyền lệnh: ‘Sắp có sấm động, kẻ nào chẳngkiêng ăn nằm thì sanh con chẳng toàn vẹn, ắt sẽ bị tai nạn hung hiểm’).vilưu hành cuốn sách này, hy vọng những người biết yêu mến bảnthân và yêu thương con cái nhà mình, có thể đem cuốn sách nàyđọc kỹ. Đối với quan hệ lợi hại giữa sắc dục với khỏe mạnh vàthọ-yểu, sáng như ban ngày, mà còn có thể dạy bảo con cái trongnhà, khuyên bảo thân hữu bên ngoài. Mặt khác, tôi còn nguyệncầu cho cuốn sách này có thể lưu thông rộng khắp ở thế gian.Khiến cho hết thảy mọi người đều trường thọ khỏe mạnh. Đây làhương lành mà tôi cầu chúc.viiNhững lời khai thị của Ấn Quang Đại Sư(1) Trong cõi đời gần đây, bọn thiếu niên do tình dục quá nặng, nênbuông lung chơi bời, hoặc mê mệt thê thiếp, hoặc do ý chuyên nghĩđến điều dâm mà tinh thần ngầm bị tổn thương, hoặc thủ dâm để ròrỉ, phung phí thứ quý báu nhất. Do vậy, thân yếu, tâm hèn, chưa giàđã suy; học vấn, sự nghiệp đều chẳng thành tựu. Thậm chí con cáisanh ra đều bấy bớt hoặc khó khôn lớn, thành người được! Mà thọmạng của chính mình cũng khó thể dài lâu như trong số mạng đãđịnh, chẳng đáng buồn ư? (Hoằng Hóa Nguyệt San kỳ thứ hai - Ấn QuangVăn Sao Tam Biên, Quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Vĩnh Nghiệp)(2) Tám chữ “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” chính là quy củ, mựcthước để làm người. Nếu ai chẳng tận sức nơi tám chữ ấy chính là đã mất đi támchữ. Tám chữ đã mất thì là loài cầm thú đội mũ mặc áo! Người tuổi còn trẻ thì cáikhó chế ngự nhất là tình dục. Thế đạo hiện thời chuyên lấy việc hướng dẫn khêugợi dâm dục làm mục đích. Các con tuy có âm đức của tổ tiên, chẳng đến nỗi sa đàlắm, nhưng cần phải dè dặt tự giữ gìn mới hòng chẳng thẹn với cha ông. Nếuchẳng dốc sức tạo lập phẩm hạnh, bị dâm dục khống chế, sau này quyết định chẳngcó thành tựu, hoặc đến nỗi đoản mạng mà chết. Nay ta gởi cho các con hai bộ LịchSử Thống Kỷ – đây là những chuyện nhân quả báo ứng rõ ràng trích từ hai mươibốn bộ sử ra, hai cuốn Gia Ngôn Lục – đây chính là đạo trọng yếu để học Phật, làquy củ thường hằng để tu thân, hãy nên đọc kỹ!Câu “nam-mô A Di Đà Phật” như đã nói chính là diệu pháp để tiêu nghiệpchướng, chuyển phàm thành thánh, nếu có thể thường niệm thì tâm địa tự nhiênmở mang, thông suốt, tri kiến tự trở về chánh lý, học hành, làm việc đều có lợi íchlớn. Huống hồ nay đang lúc thế đạo hoạn nạn, niệm Phật sẽ có thể gặp dữ hóalành, gặp nạn trở thành chuyện may, lợi ích chẳng thể nói trọn hết, các con hãynên hành theo Gia Ngôn Lục. Đọc Thọ Khang Bảo Giám, Thanh Niên Bảo Thânv.v… thì chẳng đến nỗi buông lung theo tình dục hoặc thủ dâm. Thiếu niên hiệnthời quá nửa mắc chứng thủ dâm. Đấy thật sự là một con dao thật sắc giết hại cáithân vậy, hãy nên đau đáu răn dè!Anh các con là Đức Tấn mong mỏi các con sẽ do Phật pháp mà giữ vẹn hạnhnhà Nho, đã sớm xin Quang viết thư khuyên lơn các con. Quang sợ các con bịnhiễm theo trào lưu thời thượng, trái nghịch với Phật, uổng phí tâm ta, vô ích chocác con, nên không viết thư ngay. Nay các con đã biết tấm lòng sâu đậm của anhmình, gởi thư xin dạy dỗ, nên ta chỉ nói những điều khẩn yếu. Những điều kháchãy tự mình chịu tận lực thực hiện, lâu ngày sẽ chẳng khó gì mà dần dần biết được! Phải biết con người và trời đất cùng xưng là Tam Tài. Trời đất cao dầy aicó thể biết được; con người với tấm thân sáu thước sao lại có thể cùng trời caođất dầy khôn lường cùng xưng [là Tam Tài] cho được? Ấy là vì con người có thểkế tục bậc thánh đời xưa, mở lối cho hàng hậu học đời sau, dự phần vào cuộc sanhthành, dưỡng dục của trời đất vậy.Con người không thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà,giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành thì đã mất cái danhnghĩa con người, huống hồ kẻ chuyên ôm lòng mưu mẹo, dối trá, ỷ mạnh nuốt yếuư? Người như thế còn thua kém sài lang, hổ, báo, rắn độc, rết dữ nữa, còn có thểgọi là người được ư? Thường nghĩ đến lời ta đừng quên thì sẽ dần dần tự có thểdự vào bậc thánh, hưởng được phước nhân từ, sống thọ. (Ấn Quang Pháp Sư Văn SaoTục Biên, Quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Ninh Đức Hằng và Ninh Đức Phục)(3) Đối với lớp hậu sinh trong hiện thời, khi chúng nó vừa hiểu chuyện đời,liền dạy chúng nó về đạo giữ tinh, hộ thân. Nếu chúng nó biết tốt - xấu, sẽ chẳngđến nỗi tự xem thủ dâm là vui, để rồi mắc các nỗi họa như bị mất tánh mạng, hoặctrở thành tàn phế, hoặc vĩnh viễn truyền lại nòi giống yếu ớt v.v… Với đứa chưahiểu chuyện đời, chớ nên nói. Còn đứa đã hiểu chuyện đời nếu chẳng nói thì trongmười đứa hết chín đứa phạm phải tật này, đáng sợ vô cùng!Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo hiếu, Khổng Tử dạy: “Phụ mẫu duy kỳ tật nhi ưu”(Cha mẹ chỉ lo về tật ấy). Những tật khác đều không quan hệ lắm. Chơi bời bừabãi, thủ dâm, tham ân ái, quả thật là chuyện khẩn yếu, quan trọng nhất! Vì thế,Khổng Tử mới nói đến điều này, nhưng người chú giải chẳng chịu nói rõ chỗ taihại nhất, khiến cho lời của Khổng Tử cũng chẳng có hiệu quả thật sự, đáng thanthay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, Quyển Hạ, Thư trả lời cư sĩ Niệm Phật)(4) Nay gởi cho ông một bộ Lịch Sử Thống Kỷ, hai cuốn Thọ Khang Bảo Giám,ba cuốn Gia Ngôn Lục. Thống Kỷ thì ông tự giữ để biết [cõi đời] bình trị hay loạnlạc, biết gương nhân quả. Thường xem Thọ Khang Bảo Giám thì chẳng đến nỗiphạm tà dâm và thủ dâm v.v... tự hại cuộc đời, tự hao phước thọ, chẳng bị tàn phếvà chết chóc. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, Quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Từ Thư Dung)(5) Tuổi con còn thơ ấu, phải cực lực chú ý giữ gìn thân thể! Hãy đọc kỹ sáchDục Hải Hồi Cuồng trong bộ An Sĩ Toàn Thư và Thọ Khang Bảo Giám. Có nhiềuthiếu niên ý niệm tình dục dấy lên rồi bèn thủ dâm; chuyện ấy khiến thân thể bịtổn thương tột cùng, chớ nên phạm! Hễ phạm sẽ tàn hại thân thể, nhơ bẩn tự tâm,khiến cho thân thể hữu dụng bị chết yểu hoặc trở thành phế nhân yếu ớt khônglàm nên cơm cháo gì! Lại còn phải hằng ngày phản tỉnh, suy xét tội lỗi nơi thân,nơi tâm, ngõ hầu chẳng đến nỗi tự mình tàn hại. Nếu không, cha mẹ không nói, sư trưởng chẳng nói, bạn bè đàn đúm xúi giục nhau tạo thành thói ác ấy; chuyệnnày nguy ngập còn hơn đi vào vực sâu, bước trên băng mỏng đấy!Tăng Tử có tư cách đại hiền mà đến lúc sắp chết mới nói: “Kinh Thi chép: ‘Dèdặt kinh sợ, như vào vực sâu, như đi trên băng mỏng’. Từ nay trở đi, ta biết đãthoát”. Chưa đến lúc sắp chết thì vẫn thường kinh sợ, nay ta sắp chết mới biếtmình không bị hãm [trong tội lỗi]. Cừ Bá Ngọc năm hai mươi tuổi biết mười chínnăm trước sai trái; đến tuổi năm mươi, biết bốn mươi chín năm trước đều sai.Khổng Tử vào tuổi bảy mươi còn muốn trời cho sống thêm vài năm hoặc dămmười năm nữa để học kinh Dịch hòng tránh lỗi lớn. Cách thánh hiền gìn giữ,trưởng dưỡng sự phản tỉnh, suy xét như vậy chính là nền tảng để học Phật liễusanh tử. Những điều khác đã được nói tường tận trong Văn Sao và các sách khác,cho nên không viết cặn kẽ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 1, Thư trả lời cư sĩTừ Chí Nhất)(6) Con em thông minh trong thế gian khi bước vào tuổi dậy thì, do cha, mẹ,anh hay thầy chẳng dạy rõ lợi - hại đến nỗi vì thủ dâm hoặc tà dâm mà mất mạngđến quá nửa. Dẫu chẳng chết ngay cũng sẽ thành tàn phế, không có thành tựu gì.Ông đã bị hại sâu xa, hãy thường nên giữ lòng nghiêm cung kinh sợ, chớ để mộtniệm nghĩ tới nữ sắc. Hãy nỗ lực tu pháp môn Tịnh Độ, lâu ngày chắc sẽ mạnhkhỏe. Ông đã lấy vợ hay chưa? Nếu chưa, hãy nên đợi vài năm nữa rồi mới lấy vợ.Nếu đã có vợ rồi thì hãy nói rõ với vợ, nhằm dưỡng thân thể, ở riêng phòng khác,coi nhau như khách, quyết chẳng coi nhau như vợ chồng. Đôi bên khuyên nhủ lẫnnhau, chớ móng tưởng một niệm nghĩ đến chuyện ăn nằm. Đợi đến khi thân thểhoàn toàn mạnh mẽ rồi, hoặc mỗi năm chung đụng một lần, hoặc mỗi quý (batháng) chung đụng một lần. Nếu thường ân ái sẽ bị lại bệnh cũ. Hãy nên nói vớihết thảy những kẻ thiếu niên về họa hại này để vun bồi phước cho chính mình(Những đứa chưa hiểu biết đừng nói chuyện này. Với đứa đã hiểu biết hãy nêncực lực nói về sự họa hại). (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 1, Thư trả lời cư sĩTôn Nghệ Dân)(7) Gần đây người ta hay bị bệnh phổi, Quang chẳng nghĩ như vậy là bìnhthường! Người đời sau nghiệp nặng, dậy thì sớm, mười một mười hai tuổi đã códục niệm. Dục niệm đã dấy lên, không có cách gì kiềm chế, lại chẳng biết nghĩa lýgiữ gìn thân thể nên bèn dùng đến cách thủ dâm. Như cây cỏ vừa mới nẩy mầmliền bị bẻ chồi, ắt phải khô héo. Con em thông minh do vậy mất mạng chẳng biếtlà bao nhiêu! Dẫu chẳng đến nỗi chết ngay lập tức thì thân thể yếu đuối, khôngnên cơm cháo gì! Đến khi lớn lên cưới vợ, cha mẹ, sư trưởng tuyệt chẳng nói đếnđạo tiết dục, giữ gìn thân thể. Vì thế, quá nửa bị bệnh chết đều do thủ dâm và thamăn nằm mà ra!Do vậy, Khổng Tử đáp lời Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo hiếu rằng: “Phụ mẫu duykỳ tật chi ưu” (Cha mẹ chỉ lo lắng về tật ấy), chính là dạy phải kiêng ăn nằm. Chẳngkiêng ăn nằm thì trăm bệnh đua nhau phát ra, có thể kiêng ăn nằm thì giảm bớtbệnh tật nhiều lắm! Mạnh Tử nói: “Dưỡng tâm giả (do kẻ khéo dưỡng thân ắt phảinhờ vào chế ngự tâm chẳng cho dục niệm khởi lên, nên gọi là “dưỡng tâm”) mạcthiện ư quả dục. Kỳ vi nhân dã quả dục, tuy hữu bất tồn yên giả, quả hỹ. Kỳ vi nhândã đa dục, tuy hữu tồn giả, quả hỹ” (Dưỡng tâm thì không gì hay bằng ít hammuốn. Ai làm người mà ít ham muốn, tuy tâm người ấy có những điều không hợpđạo nghĩa, nhưng những điều ấy cũng ít. Ai làm người mà lắm ham muốn, tâm dùcó giữ được đạo nghĩa thì đạo nghĩa ấy cũng chẳng được mấy).Cổ nhân trọng sanh mạng người dân, thiên Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Kýchép: “Trọng Xuân tiên lôi tam nhật, tù nhân dĩ mộc đạc tuần ư đạo lộ viết: ‘Lôitương phát thanh, kỳ hữu bất giới kỳ dung chỉ giả (tức phòng sự) sanh tử bất bị,tất hữu hung tai” (Ba ngày trước khi sấm động vào lúc giữa mùa Xuân, viên quanchấp lệnh cầm mõ gỗ đi khắp nẻo đường rao truyền: ‘Sấm sắp rền, kẻ nào chẳngkiêng ân ái (tức ăn nằm) sẽ sanh con chẳng vẹn toàn, ắt có tai nạn hung hiểm) (tứclà chân tay, thân thể chẳng trọn vẹn, hoặc sanh ra quái thai, hoặc vợ chồng bị chết,hoặc bị bệnh ngặt nghèo, nên nói là “ắt có tai nạn hung hiểm”). Đấy là chánh lệnhcủa quốc gia. Nay thì cha mẹ, sư trưởng, trọn chẳng nói với con cái về chuyện này.Đến khi đã ngã bệnh, thầy thuốc cũng chẳng bảo kiêng ăn nằm. Ấy là vì chẳng coimạng người là trọng, chỉ mong người ta bệnh ngày càng nặng để phải chữa trịnhiều hơn! Thầy thuốc dụng tâm như thế, tội khác nào bọn cường đạo chặn đườngcướp của! Bệnh của ông bất luận là do nguyên nhân nào phát sanh, đều nên lấyviệc đoạn hẳn chuyện ăn nằm làm phương sách để mau được lành bệnh. Đợi đếnkhi hoàn toàn bình phục rồi, hoặc mỗi năm chung đụng một lần, hoặc mỗi quý (batháng) một lần để mong chẳng lỗi đạo “tiếp nối đời trước, mở ra đời sau”, đừngthường xuyên ân ái, sẽ sanh được con cái thể chất khỏe mạnh, tánh tình từ thiện,thọ mạng dài lâu, vẻ vang nhiều lắm!Quang đưa cho vị Sư [mang thư ông tới đây] một cuốn Thọ Khang Bảo Giám[nhờ trao lại cho ông], văn lẫn lý trong cuốn sách ấy đều đáng tuân theo. Chỉ cóđiều trong những ngày kiêng ăn nằm, [ngày vía] của những vị [thần thánh] cóthần thông nhỏ nhoi cũng đều kể vào, dường như không thích đáng lắm. Nhưngđối với chuyện “[ngày vía của] đại quỷ thần thì nên kính, chứ [đối với ngày víacủa] tiểu quỷ thần nếu chẳng kính sẽ do vậy mà bị chuốc họa”, hãy đừng nên bànluận bừa bãi thì may mắn lắm thay! Dùng điều này để tự lợi mà cũng dùng nhữngđiều này để lợi tha. Do vậy, tự tu Tịnh nghiệp sanh về Tây Phương giống như traobằng khoán chuộc lại vật cũ. Nữ nhân cũng thế! Ai muốn tiết dục ắt trước hết phảinói nguyên do với vợ sẽ chẳng đến nỗi [gia đình] bị lục đục. Trong đời có những kẻ thanh xuân chôn chồng, nguyên nhân quá nửa là vì chẳng khéo tiết dục mà ra!So với cảnh giữ phòng không ở góa, sao bằng tiết dục để được tề mi giai lãochẳng hay hơn ư? Đây là đối với nữ nhân mà nói. Đàn ông cũng nên biết nhữngchuyện kiêng kỵ có liên quan đến tánh mạng của nữ nhân, đấy chính là người phốingẫu có đức hạnh hằng nâng đỡ, tạo lợi ích cho nhau. Quang ăn nói dài dòng chỉvì bi tâm tha thiết, có lẽ đã gây nhàm tai người nghe!Tịnh Độ Ngũ Kinh là căn bản của pháp môn Tịnh Độ. Hãy đọc kỹ lời tựa, sẽtự biết được những ý chánh. Tịnh Độ Thập Yếu là trước thuật thiết yếu nhất củaTịnh Độ. Quan trọng nhất là sách Di Đà Yếu Giải, là bản chú giải tuyệt diệu nhấtcủa kinh này. An Sĩ Toàn Thư là sách đứng đầu các thiện thư. Cảm Ứng ThiênTrực Giảng dùng chữ đơn giản, dễ hiểu nhưng không dung tục, kẻ nhã người tụccùng xem đều được lợi ích. Ấn Quang Văn Sao văn tuy vụng về, chất phác, nhưngnghĩa lý chấp nhận được. Noi theo những điều được sách này đề xướng chắc chắnchẳng bị chê là trái luân thường, gây rối đất nước. Hãy nên lấy Thọ Khang BảoGiám làm sách giữ gìn tánh mạng cho con em đã hiểu chuyện đời. Chẳng nhữngthanh niên phải nên xem, ngay cả người già cũng nên đọc. Muốn con em đượctrường thọ phải hoàn toàn cậy vào người cao tuổi thường nói đến chuyện họa -phước. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Chân Tịnh)(8) Năm mười bốn, mười lăm tuổi, ông đã phung phí nguyên khí, mười nămqua dâm dục vô độ, tinh thần bị tổn thương kể sao cho xiết? Huống chi lại có haingười vợ trẻ! Nếu chẳng biết tiết dục thì chẳng những không thể sanh con mà cònđến nỗi đoản mạng chết yểu! Từ nay trở đi, hễ thấy phụ nữ của người khác hãytưởng như mẹ, chị, em, con gái; xem hai cô vợ của chính mình như đạo hữu. Ngàythường niệm Quán Âm, đêm đừng ngủ chung với hai cô vợ. Dưỡng cho thân thểđược hồi phục mười phần rồi mới làm chuyện vợ chồng một lượt. Mỗi năm ăn ởvới hai bà vợ một lần thì tình cảm vợ chồng ổn thỏa, mà đôi bên đều chẳng bị tổnthương, chắc chắn sẽ sanh được con cái mũm mĩm, thông minh, tâm tánh hiềnthiện, không bệnh, trường thọ, có thể làm rạng rỡ gia đình, làm khuôn mẫu chongười trong một làng. Nếu coi chuyện ân ái là điều vui thú thì chuyện vui chưalâu, khổ lớn liền tới. Tinh khô, thân chết, không thuốc nào cứu được đâu!Lại nên đem nghĩa này nói với hai người vợ, mọi người cùng giữ điều răncấm này thì sẽ có nhiều con cái tốt đẹp, ba người bọn ông hạnh phúc đến già, sốngthì hưởng Ngũ Phước, mất sẽ lên chín phẩm. Nay gởi cho ông một bộ An Sĩ ToànThư, một cuốn Thọ Khang Bảo Giám, một cuốn Gia Ngôn Lục, một bộ Quán ÂmTụng, một cuốn Sức Chung Tân Lương. Trong bộ An Sĩ Toàn Thư có bốn tác phẩm:Đầu tiên là Âm Chất Văn Quảng Nghĩa giảng rộng về ý nghĩa “đừng làm các điềuác, vâng làm các điều lành”; thứ hai là Vạn Thiện Tiên Tư [khuyên] kiêng giết; thứba là Dục Hải Hồi Cuồng răn dâm; thứ tư là Tây Quy Trực Chỉ khuyên tu Tịnh Độ.Quán Âm Tụng giảng rõ cặn kẽ sự linh cảm của đức Quán Âm. Hễ đọc Thọ KhangBảo Giám sẽ chẳng dám không tiết dục. Gia Ngôn Lục giảng đầy đủ rõ ràng vềnhững điều quan trọng trong tu trì. Sách này trích lục những điều trọng yếu từ bộVăn Sao. Đọc Sức Chung Tân Lương sẽ có thể làm cho mẹ ông quyết định đượcvãng sanh Tây Phương. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 2, Thư trả lời cư sĩDương Chân)(9) Con tuổi còn trẻ dại, phải hết sức chú ý giữ gìn thân thể, hãy nên đọc kỹcuốn Dục Hải Hồi Cuồng trong bộ An Sĩ Toàn Thư và Thọ Khang Bảo Giám. Cónhiều thiếu niên khi ý niệm tình dục khởi lên bèn thủ dâm. Chuyện ấy gây tổnthương thân thể cực lớn, chớ nên phạm. Hễ phạm chính là tự tàn hại thân mình,nhơ bẩn tự tâm, khiến cho thân thể hữu dụng bị chết yểu, hoặc thành phế nhânbấy bớt không nên cơm cháo gì! Hằng ngày phải phản tỉnh, quán sát tội lỗi nơithân tâm, ngõ hầu chẳng đến nỗi tự tàn, tự hại. Nếu không, cha mẹ chẳng nói, sưtrưởng không nói, bạn bèn đàn đúm xúi giục nhau đến nỗi thành ra thói ác ấy.Nguy hiểm lắm, còn hơn vào vực sâu, đi trên băng mỏng!Tăng Tử mang tư cách đại hiền mà đến khi sắp chết mới nói: “Kinh Thi chép:‘Dè dặt kinh sợ, như vào vực sâu, bước trên băng mỏng’, từ nay trở đi, ta biếtthoát khỏi”. Chưa đến lúc sắp chết, vẫn thường dè dặt, kinh sợ, biết mình ắt cóchỗ thiếu sót. Nay sắp chết rồi, mới biết mình không thiếu sót! Cừ Bá Ngọc nămhai mươi tuổi, biết mười chín năm trước sai trái; đến khi tuổi tròn năm mươi,biết bốn mươi chín năm trước sai trái. Khổng Tử vào độ tuổi bảy mươi, vẫn mongtrời cho sống mấy năm nữa, hoặc dăm mười năm để học Dịch, ngõ hầu tránh khỏilỗi lớn. Đấy chính là cách dưỡng tâm giữ ý, phản tỉnh, quán sát của thánh hiền, làcơ sở để học Phật liễu sanh tử vậy. Những điều khác đã nói tường tận trong VănSao và các sách khác, nên không ghi cặn kẽ.Con tên là Giám Chương, lại thêm có chánh trí huệ thì không gì chẳng hợpvới Phật, với thánh, không gì chẳng đúng pháp thế tục. Người đời nay hơi thôngminh bèn cuồng vọng. Đấy đều là chẳng biết nghĩa lý “vị học nhật ích, vị đạo nhậttổn” (vì việc học [đạo đức] ngày càng tăng thêm, vì đạo [thói xấu] ngày càng giảmbớt). “Vị đạo nhật ích” là đem đạo đức thánh hiền cất chứa trong thân tâm ta, “vịđạo nhật tổn” là nghiêm túc phản tỉnh, quán sát, để khởi tâm động niệm trọnchẳng có tội lỗi gì! Nếu không, chỉ là bậc văn tài lỗi lạc, đã chẳng thể vì việc học,huống là vì đạo ư? Hiện nay thời cuộc nguy hiểm, hãy nên khuyên hết thảy già -trẻ - trai - gái hằng ngày thường kiền thành niệm thánh hiệu Quán Âm để làmthượng sách cầu hòa bình, giữ gìn thân mạng. Ngoài cách này ra, không còn tìmđược cách nào khác nữa đâu! (Ngày Hai Mươi Sáu tháng Bảy) (Ấn Quang Pháp SưVăn Sao Tam Biên, Quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Từ Giám Chương)(10) Lời di chúc khẩn yếu là giữ gìn thân thể. Tấm thân của ông quan hệ đếncả nhà, cha ông đã ra ngoại quốc rồi. Trong nhà ông còn có mẹ, cậu em thứ hai vàcô em gái nhỏ đều trông cậy vào ông. Nếu ông chẳng biết thận trọng giữ thân, cảnhà sẽ nguy lắm. Xét theo tánh cách của ông, cũng trọn chẳng đến nỗi dâm đãng,nhưng trong vòng vợ chồng cũng nên điều độ, chớ nên mặc sức tham ưa khoáilạc. Đối với những điều kỵ húy trong Thọ Khang Bảo Giám, hãy nên suy xét kỹcàng, ghi nhớ. Cũng nên bảo Sư Thiệu đọc kỹ, ngõ hầu được sống hạnh phúc đếngià, cùng được sống lâu, khỏe mạnh.Những kẻ thanh xuân ở góa trong cõi đời cũng như những người cưới vợchưa được mấy chốc vợ đã chết, mười phần hết tám chín là do chẳng biết tự thậntrọng đến nỗi uổng mạng! Há có phải mỗi trường hợp đều do bổn mạng từ lúcsanh ra đã như thế ư? Nếu La Tế Đồng, thương nhân X… và đứa con của thươnggia Y… đọc kỹ Thọ Khang Bảo Giám, đã biết rành rẽ những điều kỵ húy, há cóchuyện bị chết ngay ư? Quang thương bọn họ vô tri, nên mới đặc biệt biên tậpsách này (đã in năm vạn cuốn). Sợ ông nghĩ “ta chẳng đến nỗi phạm tà dâm, cầngì phải đọc sách ấy!” Vậy là sai lầm quá đỗi rồi! Hoàng đế Đồng Trị cũng do bệnhchưa lành mà ân ái nên phải chết.Chuyện này quả thật là đạo trọng yếu để giữ thân yên đời. Thuở xưa, hoàngđế còn sai viên quan truyền lệnh dùng mõ gỗ đi khắp nẻo đường (tức đường sá,ngõ ngách trong thôn làng) để bảo ban. Nay thì cha mẹ cũng chẳng bảo ban concái, đến khi con phạm phải những điều kỵ húy chết mất rồi, chỉ biết gào khóc, háchẳng đáng buồn quá sức ư? Tôi có tình thâm giao với cha ông, mẹ ông mà vợchồng ông lại quy y [với tôi], tôi xem vợ chồng ông như con cái vậy. Vì thế mớinói lôi thôi như thế này. Những vị thiện tri thức khác quyết chẳng nói đến chuyệnnày, chẳng biết ông có nghĩ lời Quang là đúng hay không? Những điều khác đã cótrong kinh điển, nên Quang chẳng cần phải nói nữa! (Ngày mồng Hai tháng Hainăm Kỷ Tỵ - 1929) (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Sư Khang)(11) Ông nói năm sáu năm qua, từ sau khi ra trường, mắc bệnh xương khớprã rời, gần như đã chết một nửa người. Có phải vì [trong thuở còn đi học ấy] bạnbè đàn đúm tụ họp, cùng nhau đọc tiểu thuyết đến nỗi chân tinh mất mát, thủdâm liên tục, do vậy mới có hiện tượng ấy hay chăng? Đấy chính là căn bệnh chungcủa lũ học sinh trong hiện tại, trong mười đứa có đến tám chín đứa [vướng phải].Do cha mẹ, thầy, bạn đều chẳng chịu nhắc đến, nên kẻ bị bệnh ngày thấy càngnhiều, chẳng thể ngăn dứt được! Do chuyện này, Quang liền cho in tám trăm cuốnThọ Khang Bảo Giám. Hễ kẻ trẻ tuổi gặp Quang, Quang đều nói rõ lẽ lợi - hại vớihọ, bảo họ giữ gìn thân thể đừng phạm. Dù là thủ dâm hay tà dâm đều phảinghiêm túc kiêng dè, đừng phạm; ngay như vợ chồng ăn nằm với nhau cũng phảicó chừng mực, cũng như biết kiêng kỵ để khỏi đến nỗi bị mất mạng oan uổng! Nếu không, người cực tốt cũng vẫn có thể chết vì chuyện này. Xúm nhau đổ thừa chosố mạng, chẳng biết tự mình đã nộp mạng!Ông còn rất trẻ mà đã bị bệnh, hãy nên thường đọc sách ấy, cũng như bảoĐức Chánh thường đọc. Đôi bên răn nhắc lẫn nhau, ngõ hầu những đứa con đãsanh như Quân Tốn v.v… đều được mũm mĩm, trưởng thành, tánh tình hiền thiện,vợ chồng ông sống hạnh phúc đến già, cùng sanh Tây Phương. (Ấn Quang Pháp SưVăn Sao Tam Biên, Quyển 3, Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ sáu) )(12) Lại còn có Thọ Khang Bảo Giám đã giao cho thợ sắp chữ. Đợi khi sắp chữxong, sẽ cho in cùng lúc với Văn Sao. Sách này chính là bản tăng đính (mở rộng,sửa chữa) cuốn Bất Khả Lục rồi đổi tên. Bọn thiếu niên hiện thời thường chẳngbiết cách giữ gìn thân thể, mặc sức theo đuổi sắc dục; do vậy mà chết chừng bốnphần. Do ham sắc dục mà bị các thứ bệnh khác rồi chết cũng chiếm đến bốn phần.Người trong cả cõi đời, trong mười phần có đến tám phần là do bị chết trực tiếphay gián tiếp bởi nữ sắc, cũng đáng thảm lắm!Đừng nói chi kẻ buông lung tìm hoa kiếm liễu, ngay như trong tình vợ chồng,những kẻ vì chẳng biết kiêng kỵ mà bị tử vong cũng chẳng biết đến mấy vạn! Trongtháng Mười năm ngoái, do một đệ tử của Quang vì bị bệnh đã lâu, người thiếp bèncầu Phật, nguyện ăn chay suốt đời, ông ta không uống thuốc mà được lành. Khísắc của ông ta thuần tịnh rạng rỡ ít có ai bằng. Chưa được hơn một tháng, dophạm phòng sự (ăn nằm) liền chết! Vì thế, tôi phát tâm in cuốn sách này để cứunhững kẻ chẳng biết kiêng kỵ khỏi phải bị chết. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,Quyển 3, Thư trả lời Phước Châu Phật Học Xã)(13) Nay đem Vật Do Như Thử, Sức Chung Tân Lương, Thọ Khang Bảo Giám,Tức Tai Khai Thị, Liễu Phàm Tứ Huấn, mỗi thứ hai cuốn, lèn chặt [thành một bưukiện]. Những thứ giấy dùng để chèn chỗ trống cũng đừng vất đi, bởi đấy chính làSớ Lễ Quán Âm Cầu Con và Ba Điều Trọng Yếu Để Cầu Con, cũng là bài văn cóquan hệ lớn lao cho hết thảy kẻ thanh niên. Bất luận già hay trẻ đều chớ nên khôngbiết! Nếu không, chẳng biết tiết dục mà mong sanh con thì chưa sanh được conmà cha đã chết trước rồi! Hoặc mẹ do ân ái quá nhiều bị mắc bệnh lao sái, chẳng biết làbao nhiêu!Đồ Hữu Sanh khá thông minh. Những con em thông minh hiện thời phầnnhiều mắc bệnh thủ dâm, hãy bảo chúng nó đọc Thọ Khang Bảo Giám và LiễuPhàm Tứ Huấn thì sẽ chẳng đến nỗi mắc phải những mối họa đau khổ như trởthành tàn tật và đoản mạng mà chết. Xưa kia, thánh vương sai quan bố cáo[khuyên mọi người không nên ăn nằm khi sấm sắp động vào đầu Xuân], nay thìcha, mẹ, thầy, bạn nhất loạt chẳng nói đến chuyện này, cũng là do ác nghiệp củamọi người cảm thành!Có kẻ càng ngu hơn, hễ con cái bị bệnh liền cưới vợ cho nó; ý muốn cho conmau được lành bệnh, thật ra là làm cho nó chóng chết! Chẳng đáng buồn ư? Mộtngười ở Hồ Nam có hai đứa con đều chết vì lý do này. Đứa con thứ ba mắc bệnhvẫn muốn làm như thế, bị một người bạn quở trách mới thôi. Ấy chính là quả báodo đời trước dụ dỗ kẻ khác chơi bời bừa bãi đến chết. Một đứa đã chết còn chưangộ, hai đứa chết luôn mà vẫn chưa ngộ! Nếu không bị người bạn quở trách chắcsẽ bị tuyệt tự! Rốt cuộc vì lẽ nào mà tâm kẻ ấy ngu như thế? Nếu không phải dooán quỷ xui khiến, ắt chẳng đến nỗi ngu như thế! Xin hãy sáng suốt thì may mắnthay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 3, Thư trả lời cư sĩ Tịnh Thiện (thư thứ ba)(14) Nay gởi cho ông một bộ Văn Sao, một bộ An Sĩ Toàn Thư, một bộ QuánÂm Tụng, hai cuốn Thọ Khang Bảo Giám, xin hãy đọc kỹ. Văn Sao thì chẳng nhữngtu trì Tịnh nghiệp có chỗ làm căn cứ nương tựa, ngay cả những cách xử thế, giữthân, tề gia, dạy con v.v… đều có nêu rõ. Trong đời hiện thời, ắt cần phải sốt sắngđề xướng nhân quả báo ứng. Dạy con cố nhiên là nhiệm vụ trọng yếu, nhưng dạycon gái càng quan trọng hơn dạy con trai, bởi lẽ con người lúc bé thường ở bênmẹ, nếu mẹ hiền thì con cái cũng tự nhiên sẽ hiền. Do thường được un đúc nuôidạy đã tập quen thành thói, đến khi lớn lên được cha dạy dỗ sẽ thuận chiều chỉdạy, thật là dễ dàng. Đời hiện tại loạn đến mức như thế này đều là vì không có haithứ khéo dạy trên đây mà nên nỗi! Quang không có sức cứu vãn kiếp vận, nhưngcó tâm cứu đời, cho nên ở đây mới dài dòng một phen. Nếu chẳng cho lời bàn củalão tăng là viễn vông, hủ bại thì may mắn lắm thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao TụcBiên, Quyển thượng, Thư gởi cư sĩ Tự Giác)(15) Khéo sao cư sĩ Bành Mạnh Am đưa truyện người con gái có hiếu ở HồNam cho đọc. Cô con gái có hiếu ấy chỉ biết có mẹ, người con gái tiết hạnh chỉ biếtđến nghĩa, sự sống chết của chính mình chẳng thèm màng đến nữa. Tuy đã thểhiện gương táng thân vì mẹ, vì nghĩa, nhưng chẳng thể [dùng gương ấy để] răndạy người tầm thường được; tuy vậy, lòng thành tận hiếu, tận nghĩa, ngay đến cảthiên địa, quỷ thần cũng bị cảm động, huống chi những người sẵn cùng một cáitâm ấy ư? Những kẻ chẳng nghĩ đến ân dưỡng dục, tùy ý tự do luyến ái, thấy nghenhững chuyện này há chẳng thẹn muốn chết, do đó bèn đau đáu sửa đổi lỗi trước,dốc lòng tu đức sau ư? Điều này liên quan đến thế đạo nhân tâm cũng lớn lắm.Hơn nữa, tiết tháo như Tần Chiêu, ngay trong khi ấy mà giữ được lòng chẳngloạn lại càng sâu sắc gấp trăm lần. Do [giữ cho] một lúc chẳng loạn thì dễ, nhưngnhiều ngày chẳng loạn thì khó lắm. Huống chi ông Đặng X… đã nói: “Nếu chẳngthể kiềm chế được thì cô gái ấy sẽ thuộc về anh” đó ư? Thêm nữa, thiếu niên namnữ trong mấy chục hôm, ngày cùng ăn, đêm cùng ngủ, mà có thể trọn chẳng cóchuyện nam nữ tình dục, chẳng xáo trộn thiên lý, chẳng phải là kẻ trọn chẳng có nhân dục mà làm được ư? Tôi đem chuyện này ghi thêm vào An Sĩ Toàn Thư vàThọ Khang Bảo Giám. Hai cuốn sách ấy đã in hơn hai mươi vạn cuốn, nay lại ghikèm [câu chuyện trên đây] vào cuốn sách này, hợp thành truyện trung hiếu tiếtnghĩa để làm nhát kim đâm xuống đỉnh đầu những gã phế trừ luân lý, ngõ hầu cănbệnh đã lậm vào tạng phủ được mau lành, khôi phục chuyện giữ vẹn luân thường,trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, không làm các điều ác, vâng giữnhững điều lành. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, Quyển hạ, Lời tựa cho bộ Dương TiêuSơn Tiên Sinh Ngôn Hạnh Lục)Mười đại lợi ích của việc niệm Phật(Nghĩa là người niệm Phật quyết định sẽ được mười điềulợi ích)(1) Ngày đêm thường được hết thảy chư thiên, đại lựcthần tướng ẩn thân thủ hộ người ấy.(2) Thường được hai mươi lăm vị đại Bồ Tát như QuánÂm bảo vệ, gia hộ.(3) Ngày đêm thường được chư Phật hộ niệm, A Di ÐàPhật thường phóng quang minh nhiếp thọ người ấy.(4) Hết thảy ác quỷ, dạ-xoa, la-sát đều chẳng hại được,chẳng bị trúng phải rắn độc, thuốc độc.(5) Nước, lửa, oán tặc, đao binh, súng ống, gông, cùm,lao ngục... đều chẳng mắc phải.(6) Những tội nghiệp đã tạo khi trước thảy đều tiêu diệt.(7) Ðêm ngủ mộng thấy điềm lành, hoặc thấy thân sắc vàng thắng diệu của Phật A Di Ðà.(8) Tâm thường hoan hỷ, vẻ mặt tươi tắn, khí lực sung mãn, việc làm tốt đẹp.(9) Thường được hết thảy mọi người trong thế gian cung kính lễ bái giống hệt như kính Phật.(10) Lúc lâm chung tâm không hãi sợ, chánh niệm hiện tiền. Tây Phương Tam Thánhdùng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Ðộ, liên hoa hóa sanh, hưởng sự vui thắng diệu.Xin quý vị chú ý: Trong mười điều lợi ích này, chín điều trước đều là những lợi íchchuyển hóa nghịch cảnh, tiêu trừ tai nạn. Ðiều lợi ích cuối cùng là thân sau thoát khỏiluân hồi.Phương pháp niệm phật(1) Khóa lễ sáng chiều đơn giản nhấtNam mô đại từ đại bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệmmột lần, lễ một lạy, hoặc chỉ chắp tay).Nam mô đại từ đại bi A Di Ðà Phật (niệm lễ giống như trên).Nam mô A Di Ðà Phật (không cần lễ bái, chỉ cung kínhniệm. Quỳ niệm, ngồi niệm, đứng niệm đều được. Tốithiểu là trăm câu đến ngàn câu, vạn câu tùy theo công việcrảnh hay bận của mỗi người. Chỉ nên từ ít tăng lên nhiều,đừng từ nhiều giảm xuống ít).Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (một niệm, một lạy).Nam mô Ðại Thế Chí Bồ Tát (niệm một niệm, một lạy.Quán Âm, Thế Chí là hai vị hiếp sĩ (Bồ Tát thị giả thân cận)của đức A Di Ðà, thường gọi chung là Tây Phương Tam Thánh. Niệm Phật xong, lẽ đươngnhiên nên lạy hai Ngài).Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát (một niệm, một lạy. Cực Lạc thế giới có rấtnhiều vị Bồ Tát, tương lai đều là thầy bạn của mình nên cũng nên lễ bái).Nguyện đem công đức này,Trang nghiêm Phật tịnh độTrên đền bốn ân trọngDưới cứu khổ ba đườngNếu có ai thấy nghe,Ðều phát tâm Bồ Ðề,Hết một báo thân này.Cùng sanh cõi Cực Lạc.(Ðây là bài hồi hướng, cũng nói về nguyện lực niệm Phật của mình)Lễ bái lui ra.Phụ chú:Mỗi ngày sáng chiều hai lượt thực hành công khóa trên đây. Rửa tay, súc miệng, đốitrước tượng Phật thắp hương, đảnh lễ, theo đúng pháp tụng niệm. Nếu không có tượngPhật hoặc chỗ mình ở không thuận tiện thì không đốt hương, không đảnh lễ cũng được, chỉ hướng mặt về Tây, trong lòng cung kính thì cũng có công đức tương tự. Ðừng niệmnhững chữ ghi trong dấu ngoặc.(2) Phương pháp niệm Phật mười hơiCho đến hết một hơi, niệm dăm ba câu hoặc sáu bảy câu “nam mô A Di Ðà Phật”. Niệmhết mười hơi như vậy bèn niệm bài hồi hướng một lượt, lễ bái lui ra.Phụ chú:Cách này dành cho người cực kỳ bận rộn, chỉ tốn thời gian không quá năm phút. Ðiềutrọng yếu nhất là mỗi ngày sáng chiều phải thực hành một lần. Vạn phần chẳng đượcgián đoạn. Có tượng Phật thì đối trước tượng Phật niệm tụng, không có tượng Phật thìhướng về phía Tây mà làm.Hai cách niệm Phật vừa đề cập trên là dành cho người quá bận rộn. Nếu có lúc rảnh rỗithì sau khi niệm “nam mô đại từ đại bi A Di Ðà Phật”, tụng một quyển kinh A Di Ðà, tụngba biến chú Vãng Sanh, tán Phật một lượt thì càng hay. Cách hành trì này tối đơn giản,hợp thực tế, quyết định thành công.MỤC LỤCĐỀ TỰA ............................................................................................................................................2Đề tựa sách Thọ Khang Bảo Giám.................................................................................................2Lời tựa tái bản sách Bất Khả Lục ..................................................................................................6Lời tựa [khuyên] giữ vẹn luân lý cho sách Bất Khả Lục .............................................................8Lời tựa phổ khuyến thọ trì lưu thông sách Dục Hải Hồi Cuồng...............................................10* Phụ lục: Đức cao đẹp đáng ngưỡng mộ...................................................................................12CẢNH HUẤN ..................................................................................................................................14Huấn sức sĩ tử giới dâm văn (Bài văn khuyên bảo sĩ tử kiêng dâm).......................................14Giới dâm thánh huấn...................................................................................................................16Giới dâm văn ................................................................................................................................18Giới dâm cách ngôn (Những câu cách ngôn răn dạy kiêng dâm) ............................................20Mười hai điều tai hại của tà dâm ................................................................................................42Tứ giác quán.................................................................................................................................45Cửu tưởng quán...........................................................................................................................46Mười điều khuyên răn .................................................................................................................48Giới chi tại sắc phú (bài phú khuyên răn kiêng giữ sắc dục)....................................................50SỰ CHỨNG ....................................................................................................................................54Phước thiện án (những câu chuyện kể về được phước do làm lành)......................................54Họa dâm án (Những chuyện mắc họa vì dâm) ..........................................................................70Hối lỗi án (những câu chuyện hối lỗi) ........................................................................................85Đồng thiện dưỡng sanh ............................................................................................................... 91LẬP THỆ .........................................................................................................................................95Phát thệ trì giới ............................................................................................................................95Lời thệ nguyện ..............................................................................................................................98GIỚI KỲ ........................................................................................................................................100Bảo thân lập mạng giới kỳ cập thiên địa nhân kỵ....................................................................100CẦU TỰ ........................................................................................................................................ 127Bảo thân quảng tự yếu nghĩa .................................................................................................... 127PHỤ LỤC ......................................................................................................................................132Tích tự do kết hôn tà thuyết văn...............................................................................................132Bất Khả Lục kỷ nghiệm ..............................................................................................................136Tích tự cận chứng ......................................................................................................................138Thọ Khang Bảo GiámĐỀ TỰAĐề tựa sách Thọ Khang Bảo GiámChẳng có ai không muốn trường thọ, mạnh khỏe, yên ổn, con cháu đông đảo,công nghiệp lẫy lừng, vận may đưa tới; cũng không có ai muốn bị đoản mạng, chếtyểu, bệnh tật, con cháu tuyệt diệt, gia đạo suy đồi, hung thần ngự đến. Đấy làniềm mong ước thường tình của con người trong khắp cõi đời, dẫu là đứa trẻ mớicao ba thước (thước Tàu), không ai là chẳng [mong muốn] như vậy. Dẫu là kẻ chíngu, cũng hoàn toàn chẳng vui mừng vì bị tai họa, chán phước, ghét lành; nhưngkẻ hiếu sắc tham dâm thì những điều tâm họ mong mỏi và những chuyện thân họlàm, đích thực là trái nghịch nhau. Rốt cuộc đến nỗi chuyện chẳng mong muốnlại bị, chuyện mong muốn không có cách nào đạt được, chẳng đáng buồn ư?Khoan hãy nói đến kẻ buông tuồng nơi hoa, nơi liễu, chỉ mong mỏi chuyện ấy;ngay trong vòng vợ chồng, nếu cứ tham đắm, ắt sẽ bị táng thân, mất mạng! Cũngcó kẻ chẳng quá mức tham đắm, nhưng do không biết kiêng kỵ (những chuyệnkiêng kỵ được ghi đầy đủ ở phần sau cuốn sách, cho nên ở đây, tôi không ghi rõ)cứ mạo muội theo đuổi, đến nỗi bị tử vong, thật quá đáng thương! Vì thế, tiềnhiền soạn sách Bất Khả Lục thuật rõ cặn kẽ mối hại sắc dục, [sưu tập] những câucách ngôn khuyên răn kiêng dâm, bớt dục, những câu chuyện chứng tỏ “phướcthiện, họa dâm”, phương pháp trì giới, như ngày tháng, những lúc, những nơichốn, những người, những việc nên kiêng kỵ, chẳng ngại phiền phức, đều đượctrình bày cặn kẽ, ngõ hầu người đọc biết phải nên kiêng dè những gì. Tâm giácthế cứu dân ấy, có thể nói là “khẩn thiết, châu đáo, thiết tha hết mực!” Ấn Quanglại tăng đính2 sách ấy, đặt tên là Thọ Khang Bảo Giám và quyên mộ để in ra, hònglưu truyền rộng rãi, là vì có nỗi đau lòng chẳng thể chịu được!Một đệ tử [của Quang] là La Tế Đồng, người Tứ Xuyên, bốn mươi sáu tuổi,có thuyền buôn ở Thượng Hải, tánh tình khá trung hậu, tin sâu Phật pháp, cùngvới nhóm ông Quan Quýnh Chi v.v… đồng sáng lập Tịnh Nghiệp Xã. Trongnhững năm Dân Quốc 12, 13 (1923-1924), thường muốn đến núi [Phổ Đà] quy y,do bận việc, nên chưa được thỏa nguyện. Năm Dân Quốc 14 (1925), ông ta mắcbệnh cổ trướng mấy tháng, tình thế cực nguy hiểm, chữa thuốc Tàu, thuốc Tâyđều vô hiệu. Đến ngày Mười Bốn tháng Tám, thanh toán tiền thuốc, vì số tiền quálớn, liền bực mình nói: “Từ đây dù có chết, ta cũng không uống thuốc nữa”. Bàvợ bèn đối trước Phật cầu đảo khẩn thiết, nguyện suốt đời ăn chay, niệm Phật, cầu1 Phước thiện, họa dâm: Người lành được phước, kẻ dâm dật mắc họa.2 Tăng đính (增訂): Soạn thêm, sửa cho đúng những chỗ bị in sai, thiếu sót.Thọ Khang Bảo Giámcho chồng được lành bệnh. Ngay trưa hôm ấy, bệnh liền chuyển biến, đi tiêu xảào ạt nước ứ ra, không thuốc gì mà hết bệnh.Cuối tháng Tám, Quang đến đất Thân (Thượng Hải), ngụ tại chùa Thái Bình.Ngày mồng Hai tháng Chín, đến Tịnh Nghiệp Xã họp mặt cùng ông Quan QuýnhChi, ông Tế Đồng cũng có mặt. Tuy thân thể chưa hoàn toàn khỏe hẳn, nhưng khísắc thuần tịnh, tươi tắn không ai bằng. Gặp Quang, ông ta vui mừng thưa: “Sưphụ đến rồi! Con xin quy y tại đất Thân, chẳng cần phải lên núi nữa!” Ông ta chọnngày mồng Tám, cùng vợ đến chùa Thái Bình, cùng thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Lạithỉnh các cư sĩ Trình Tuyết Lâu, Quan Quýnh Chi, Đinh Quế Tiêu, Âu DươngThạch Chi, Từ Trĩ Liên, Nhậm Tâm Bạch v.v… bồi tiếp Quang dùng cơm. Ngàymồng Mười, lại mời Quang đến nhà dùng cơm, và nói: “Sư phụ chính là cha mẹcủa bọn đệ tử, bọn đệ tử chính là con cái của sư phụ”. Quang nói: “Cha mẹ chỉ lokhi con bệnh, nay bệnh ông tuy khá, nhưng chưa bình phục, hãy nên thận trọng”.Tiếc là chưa nói rõ “chuyện phải thận trọng” chính là chuyện phòng sự (ân ái).Đến hôm cuối tháng, tại Công Đức Lâm mở hội Cảm Hóa Nhà Tù, ông ta cũngdự hội. Buổi hội giải tán xong, có mười mấy người giữ Quang lại dùng cơm. Ôngta vừa mới đến, bèn cùng người trông coi sổ sách trao đổi mấy câu rồi đi, sắc mặtgiống hệt như người chết, Quang biết là do ông ta phạm phải phòng sự mà ra. Rấthối tiếc lúc đó chỉ nói “cha mẹ chỉ lo khi con bệnh”, chưa từng nói rõ duyên do,đến nỗi ông ta lại bị nguy ngập.Muốn tu chỉnh sách này để khẩn thiết khuyên răn, nhưng do bận bịu, chưalàm được. Ngày mồng Sáu tháng Chín, Quang về núi, bèn gởi ngay một lá thư,trình bày hết sức tường tận lẽ lợi, hại, nhưng đã không còn thuốc gì cứu được nữa,mấy ngày sau [ông ta] mất. Lúc mất, ông Quan Quýnh Chi mời các vị cư sĩ đềuđến niệm Phật, ông La có được vãng sanh Tây Phương hay không, chưa thể biết,nhưng không đến nỗi đọa lạc. Ôi! Bị bệnh nặng mấy tháng, do Tam Bảo gia bị,nên không dùng thuốc mà được lành bệnh, trong vòng mười mấy ngày, khí sắctươi tỉnh vượt xa người bình thường. Do không biết thận trọng, lầm lẫn phạm phảiphòng sự mà chết. Không chỉ là tự tàn hại cuộc đời, mà còn cô phụ từ ân của TamBảo quá đỗi! Quang nghe tin cáo phó, tâm đau xót, nghĩ cõi đời chẳng biết kiêngkỵ, cứ mạo muội theo đuổi chuyện đó, đến nỗi mất mạng nhiều vô số! Nếu chẳnglập cách ngăn ngừa, gìn giữ trước, đúng là đã đánh mất đạo từ bi cứu khổ của đứcNhư Lai. Tính đem Bất Khả Lục tăng đính, ấn loát lưu truyền rộng rãi, ngõ hầucả thế gian đều biết kiêng kỵ, chẳng đến nỗi lầm lẫn, đánh mất tánh mạng.Một vị cư sĩ đem số tiền do mẹ để lại là một ngàn sáu trăm đồng, tính inthiện thư để thí tặng. Quang bảo ông ta dùng hết số tiền ấy để in Thọ Khang BảoGiám, hòng cứu vớt thanh niên nam nữ chưa gặp cảnh nguy hiểm. Tức là do cáichết của một mình ông La Tế Đồng, sẽ khiến cho hết thảy những người đọc sáchnày trong hiện tại và vị lai, đều biết phải nên răn dè, thận trọng, cũng như do xoayvần lưu thông, lần lượt khuyên bảo lẫn nhau, sẽ khiến cho cả thế gian đều cùnghưởng trường thọ, mạnh khỏe, bình yên, nỗi khổ “quan, quả, cô, độc”ngày càngít thấy. Như vậy thì do cái chết của một mình ông La Tế Đồng, lại khiến cho hếtthảy mọi người đều được sống thọ, khỏe mạnh, thì cái chết của ông Tế Đồng sẽcó công đức. Nhờ công đức ấy, hồi hướng vãng sanh, ắt sẽ từ tạ Sa Bà, cao đăngCực Lạc, làm đệ tử của Phật Di Đà, làm bạn lành trong hải chúng. Mạnh Tửnói: “Dưỡng tâm giả, mạc thiện vu quả dục” (Dưỡng tâm thì không gì tốt bằngbớt ham muốn). Tuy cũng có kẻ thiểu dục mà đoản mạng, nhưng cũng rất ít. Cũngcó người đa dục, vẫn sống lâu, nhưng [người như vậy] ít lắm! Lúc mạnh khỏe cònnên tiết dục, huống chi lúc bệnh nặng mới lành!Mười năm trước, con của một vị đại thương gia, học Tây Y ở Nhật Bản, đỗđầu, ngồi xe điện. Xe chưa ngừng, đã nhảy xuống, ngã gãy cánh tay. Do chínhanh ta là bác sĩ, nên chữa trị ngay. Phàm bị thương ở xương, ắt phải kiêng nữ sắctrong vòng một trăm mấy mươi ngày. Cánh tay của anh ta lành chưa được bao lâu,do mừng thọ mẹ, liền trở về nước, đêm ngủ cùng vợ, ngày hôm sau liền chết. Anhchàng này khá thông minh, sắp thành bác sĩ, sao lại đối với chuyện kiêng kỵ nàylại ngờ nghệch chẳng biết, để đến nỗi khoảnh khắc khoái lạc cướp mất tánh mạngrất trọng? Đáng buồn quá sức!Năm trước, một thương nhân đang gặp vận may, hôm trước giành được mốilợi sáu bảy trăm đồng, khá đắc ý. Ngày hôm sau, từ chỗ người thiếp đi đến chỗvợ cả, người vợ vui lắm. Lúc đó, nhằm tháng Năm, trời rất nóng, vợ bật quạt điện,sắp đặt chậu tắm, lấy nước đá pha mật cho uống. Chỉ biết giải nhiệt cho mát, nàobiết: Hễ muốn ân ái, không được dùng chất lạnh. Chưa đầy ba tiếng sau, đau bụngchết tốt! Do vậy biết: Vì thế gian chẳng biết kiêng kỵ, cứ làm bừa đi, đến nỗi tửvong chẳng biết mấy ngàn vạn ức! Nhưng từ xưa đến nay, người có phước lớnnhất, không ai hơn hoàng đế. Phước lớn thì thọ cũng phải dài! Thử xét kỹ xem:Mười ông vua, có tám chín ông không thọ; chẳng phải là vì dục sự quá nhiều, lạido chẳng biết kiêng kỵ, đến nỗi tự rút ngắn tuổi thọ đó ư? Người đại thông minhtrong thế gian, đa phần thường chẳng thọ, là vì không hiểu kỹ chuyện này mà nênnỗi! Quang thường nói: “Người đời trong mười phần, có đến bốn phần do sắc dụcmà chết. Bốn phần tuy chẳng chết trực tiếp vì sắc dục, thì cũng vì do tham sắcdục mà bị hao tổn, chịu đủ mọi thứ cảm xúc gián tiếp khác mà chết. Người vốndo số mạng mà chết, bất quá chỉ là một hai phần trong mười phần mà thôi!” Thếgiới mênh mông, nhân dân đông đảo, mười phần có tới tám chín phần chết vì sắcdục, chẳng đáng buồn ư? Đấy chính là lý do Quang lưu thông sách Thọ Khang3 Quan (鰥): Góa vợ, Quả (寡): Góa chồng, Cô (孤): Mồ côi, Độc (獨): Không có con cái.Bảo Giám. Mong những người yêu thương con cái trong cõi đời, cũng như nhữngai vì đồng bào tạo hạnh phúc, ngăn ngừa họa hoạn, thảy đều phát tâm ấn tống,xoay vần lưu thông, khiến cho ai nấy đều biết những điều kiêng kỵ, ngõ hầu chẳngđến nỗi lầm lạc, đánh mất tánh mạng, cũng như chẳng bị tàn tật, đến nỗi khôngthể thành tựu. Những kẻ buông tuồng tìm hoa kiếm liễu, đa số là vì không cóchánh kiến, bị lầm lạc bởi bè bạn phóng túng hoặc dâm thư, đến nỗi hãm thântrong biển dục, không thể thoát được! Nếu chịu đọc kỹ [sách này], sẽ biết lợi hạisâu xa, đối với những điều quan hệ đến sự vinh diệu hay nhục nhã của tổ tông,cha mẹ, cũng như đối với sự “sống, chết, thành, bại” của bản thân lẫn gia đình,cũng như con cháu hiền hay ngu, tuyệt diệt hay hưng vượng, sẽ đều hiểu rõ nhưnhìn vào ngọn lửa. Nếu thiên lương chưa hoàn toàn mê muội, có ai hễ mắt nhìnđến, mà tâm chẳng kinh hoàng, nỗ lực đau đáu kiêng dè ư? Sẽ thấy từ đó về sau,ai nấy vui hưởng mối thiên luân vợ chồng, chẳng đến nỗi tham dục tổn thân, sẽ tềmi giai lão, vừa thọ, vừa khỏe mạnh. Người ít dục thường đông con. Con của họchắc chắn thể chất mạnh mẽ, tâm chí trinh lương, không chỉ chẳng mắc lỗi tự tổnhại thân thể, mà chắc chắn còn trở thành hạng lanh lợi làm rạng mày nở mặt chamẹ. Đấy chính là điều Quang thơm thảo mong mỏi dài lâu. Nguyện người đọccùng thể hiện sự đồng tình, tùy duyên lưu truyền, thì nhân dân may mắn lắm, mànước nhà cũng may mắn lắm thay!Cuối Xuân năm Dân Quốc 16 (1927), tức năm Đinh Mão, Thường Tàm QuýTăng Thích Ấn Quang kính soạnTề mi (齊眉, ngang mày): Đời Hậu Hán, vợ của Lương Hồng là nàng Mạnh Quang khi đưacơm cho chồng, đều nâng bát cơm cao ngang mày, ngụ ý kính trọng chồng như khách quý.Sau này, thường dùng chữ “tề mi” để diễn tả ý vợ chồng kính trọng lẫn nhau. “Giai lão” (偕老) là sống hạnh phúc đến răng long đầu bạc.Lời tựa tái bản sách Bất Khả LụcCái họa nữ sắc cực kỳ khốc liệt. Từ xưa đến nay, do họa này mà nước mất,nhà tan, bại thân, tuyệt tự, kể sao cho xiết! Dẫu chưa đến nỗi ấy, nhưng trong sốđó, những kẻ thân đang khỏe mạnh, trở thành suy nhược, chí đang sáng suốt trởthành hôn ám, biến tư chất đội trời đạp đất, mong “thành thánh, thành hiền”, trởthành hạng tầm thường, hèn tệ, không có chí lập thân, lại há có ngằn hạn? Huốngchi, những kẻ nghịch thiên lý, loạn nhân luân, sống làm loài cầm thú mặc áo, độimũ, chết đọa trong tam đồ ác đạo, làm sao có thể thấy hết, biết hết cho được? Ôi!Cái họa nữ sắc sao mà khốc liệt tột bậc như vậy! Do đó, chư thánh, chư hiền, đặcbiệt rủ lòng xót thương, hoặc dùng lời lẽ cứng rắn để răn dạy, hoặc dùng lời nhẹnhàng để khuyên bảo, ngõ hầu khắp cả cõi đời đều biết lý “phước thiện, họadâm”. Lại còn nêu ra các sự thật để răn dạy, ngõ hầu những ai biết yêu thươngchính mình, hễ đọc đến, ắt sẽ sợ sệt, kinh hoảng, hiểu ra, khô cạn dòng lũ nhândục, khôi phục thiên lương sắp bị diệt. Từ đấy, hết thảy đồng luân đều hưởngphước “giàu thọ, khỏe mạnh, bình yên”, vĩnh viễn lìa khỏi mối họa “nghèo, bệnh,chết yểu”. Đây chính là lý do soạn tập bộ Bất Khả Lục. Cư sĩ Trương Thụy Tăngmuốn khắc in lại để bố thí, bảo tôi viết lời tựa nhằm phô bày ý nghĩa trọng yếucủa việc bớt dục.Cần phải biết: Đối trước sắc đẹp, dục tâm bừng bừng, thì những lời lẽ khuyênrăn nhân quả báo ứng cứng rắn hay mềm mỏng đều khó thể đoạn tâm ái. Nếu [lúcấy] có thể quán bất tịnh, một bầu lửa dục sẽ băng tiêu ngay lập tức. Con em đấtTrường An ở xứ Tần (Thiểm Tây) của tôi phần nhiều thích chơi dế. Có ba anh emtuổi đã choai choai, đêm trăng đi bắt dế nơi gò mả, chợt thấy một thiếu phụ nhansắc tuyệt vời, bèn cùng đuổi theo. Người thiếu phụ ấy khuôn mặt biến đổi, thấtkhiếu ứa máu, lưỡi thè ra hơn cả thước, ba đứa nó sợ chết ngất. Ngày hôm sau,người nhà tìm được, cứu sống được một đứa, mới biết chuyện ấy. Đứa còn sốngbệnh nặng mấy tháng mới khỏi, con cháu nhà ấy chẳng dám đi bắt dế vào banđêm nữa! Khi thiếu phụ đó chưa biến đổi khuôn mặt, lòng yêu nhập vào xươngtủy, không thỏa lòng dục không xong! Đến khi vẻ mặt biến đổi, bèn kinh hãi đếnchết, tâm ái chẳng hề còn nữa! Nhưng trong lúc chúng cùng nhau đuổi theo cô taấy, đương nhiên là chưa thấy máu và lưỡi thè ra. Sao khi máu chưa chảy, lưỡi cònngậm, bèn sanh tâm ái? Lúc máu chảy, lưỡi thè ra, lại sanh tâm sợ? Hiểu rõ điềunày, hễ thấy trang sắc nước hương trời, đều tưởng như con quỷ treo cổ, thất khiếutuôn máu, lưỡi thè ra hơn thước, sao đến nỗi bị sắc làm mê, sống chẳng hưởng hếttuổi trời, chết đi bị đọa vĩnh viễn trong đường ác ư?Hai mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi và miệng gọi chung là thất khiếu (七竅).Do vậy, đức Như Lai dạy kẻ ái dục nặng nề quán bất tịnh. Quán lâu ngày,còn có thể đoạn Hoặc, chứng Chân, siêu phàm nhập thánh; há chỉ là không phạmtà dâm, tiết dục, gìn giữ sanh mạng mà thôi ư? Nữ nhân nhan sắc xinh đẹp yêukiều, khiến người khác nẩy sanh tâm ái, hành dục sự, chẳng qua chỉ là một tấmda mỏng bên ngoài, rực rỡ, diễm lệ gây mê hoặc đó thôi! Nếu bóc lớp da mỏngấy đi, không chỉ các vật được bọc trong lớp da ấy không thể yêu luyến được, màngay cả lớp da mỏng ấy, cũng tuyệt đối không thể yêu luyến nổi! Nếu lại còn mổxẻ thân thể, chỉ thấy máu mủ dầm dề, xương thịt chằng chịt, tạng phủ, phân, tiểubầy hầy khắp đất, hôi dơ, tanh tưởi, chẳng nỡ thấy nghe! So với hình dáng biếnđổi của thiếu phụ trên đây, còn đáng sợ hãi, chán ghét hơn trăm lần, ngàn lần!Dẫu cho giai nhân tuyệt thế nghiêng nước nghiêng thành, đối với những vậtđược chứa trong lớp da mỏng, có ai là không như vậy? Sao con người chỉ nhìn cáivẻ bên ngoài, chẳng xét kỹ nội dung? Yêu chút phần sắc đẹp, chẳng màng đếnnhiều phần xấu ác? Tôi mong sao người đời bỏ vẻ bên ngoài, hãy xem xét nộidung, chán cái “nhiều xấu ác”, gạt bỏ đôi chút vẻ đẹp [bên ngoài], hòng cùngthoát biển dục, cùng lên bờ giác. Lại trong lúc dâm dục hừng hực, không thể chếngự, chỉ nên nghĩ nữ âm như miệng rắn độc, như đem nam căn của chính mìnhbỏ vào miệng rắn, tâm thần kinh hoảng, xương lông run rẩy. Vô biên nhiệt não sẽnguội lạnh ngay lập tức! Đấy chính là phương pháp diệt dục giản dị nhất vậy!Thích Ấn Quang soạn.Nữ âm (女陰): Bộ phận sinh dục của người nữ.Lời tựa [khuyên] giữ vẹn luân lý cho sách Bất Khả LụcTrời là đại phụ, đất là đại mẫu. Hết thảy nam nữ đều là con cái của trời đất,đều là kẻ ruột thịt của ta. Đã là ruột thịt, phải trọn hết lòng hòa thuận, yêu thương,che chở, nâng đỡ, mong cho ai nấy đều được yên ổn. Như thế, sẽ chính là đứa conxứng đáng của trời đất, chẳng khiến đấng sanh ra ta hổ thẹn! Đã có thể che chở,nâng đỡ con cái của trời đất, ắt trời đất sẽ thường che chở, nâng đỡ kẻ đó, khiếncho phước sâu, thọ dài, mọi chuyện như ý. Nếu như mặc tình hoành hành, khinhhiếp con cái của trời đất, sẽ tổn phước, giảm thọ, diệt môn, tuyệt tự. Khi một hơithở ra không hít vào được nữa, sẽ vĩnh viễn đọa trong ác đạo trải trăm ngàn kiếp,không được làm thân người lần nữa! Ấy chính là tự mình chuốc họa, há có phảilà trời đất không nhân từ ư?Khoan nói đến những chuyện khác, kìa như vợ con, chị, em, ai nấy đều có.Nếu kẻ nào dòm ngó vợ con, chị em của chính mình, ta liền nổi nóng, bực tức,muốn đánh nhau, sao lại thấy vợ con, chị em của người ta có chút nhan sắc, tâmbèn khởi xằng dâm niệm, lăm le toan ô nhục họ? Cùng là con cái của trời đất, làruột thịt của ta. Nếu đối với người ruột thịt mà khởi ý niệm bất chánh, sẽ là ô nhụccon cái của trời đất, khinh khi người ruột thịt, kẻ ấy còn có thể đứng trong trờiđất, còn đáng gọi là người nữa ư? Huống chi, đạo vợ chồng thuộc về Tam Cương,Ngũ Thường, nam nữ lập gia đình là giềng mối lớn lao của con người. Con ngườisở dĩ khác với cầm thú, là do có nhân luân. Nếu làm chuyện khinh miệt lý, loạnluân, chính là dùng thân người để làm chuyện cầm thú; thân tuy là người, nhưngthật ra, chẳng bằng cầm thú. Vì sao vậy? Vì cầm thú không biết luân lý, con ngườibiết luân lý! Biết luân lý mà vẫn khinh miệt luân lý, phải ở dưới loài cầm thú!Nhưng hết thảy chúng sanh do dâm dục mà sanh, cho nên tập khí ấy đặc biệtnặng nề, phải ngăn ngừa sâu xa. Tưởng như người thân, tưởng như kẻ oán, tưởngbất tịnh, ngõ hầu dứt bặt tà niệm, thuần túy toàn là chánh niệm. Oán và bất tịnhthì trong lời tựa trước đã nói, ở đây, chỉ riêng phát huy về ý “tưởng như ngườithân”, ngõ hầu người đọc cùng giữ trọn vẹn thiên luân, chẳng ôm giữ ác niệm.Kinh Tứ Thập Nhị Chương dạy con người nên xem nữ nhân như sau: “Tưởngngười già như mẹ, người lớn hơn như chị, người nhỏ hơn như em, coi đứa bé bỏngnhư con gái, sanh tâm độ thoát, dứt bặt ác niệm”. Kinh Phạm Võng dạy: “Hếtthảy người nam đều là cha ta, hết thảy người nữ đều là mẹ ta. Đời đời không khinào ta chẳng từ họ sanh ra, phải sanh tâm hiếu thuận, tâm từ bi”. Như vậy, chechở, nâng đỡ họ còn chưa xuể, lẽ đâu khởi tâm xấu hèn, toan ô nhục họ?Đời Minh, có một người học trò mắc thói dâm, chẳng thể tự kiềm chế, bènhỏi Vương Long Khê. Long Khê nói: “Ví như có người bảo ông: ‘Ở đây có côgái làng chơi nổi tiếng, ông có thể đến chơi bời’. Theo lời đó, ông đến gặp, hóara là mẹ, hoặc chị em của ông. Ngay khi ấy, lòng dâm của ông có nguội lạnh haychăng?” Đáp: “Nguội chứ!” Long Khê nói: “Thế nhưng dâm vốn là không, ônghãy hiểu cho đúng”. Nếu con người chịu coi hết thảy nữ nhân là mẹ, là con gái, làchị, là em, không chỉ là những ác niệm dâm dục chẳng thể do đâu mà sanh khởi,mà nhờ đó còn mau chóng thoát khỏi sanh tử luân hồi! Trong bộ sách Bất KhảLục, những lời khuyên răn cứng rắn hay nhẹ nhàng, những câu chuyện được phướcdo thiện, mắc họa do dâm, và những ngày tháng nơi chốn nên kiêng ngừa [ănnằm], đều nhất nhất nêu rõ. Có thể nói cái tâm “giác ngộ cõi đời tỉnh mê” ấy đãvừa chân thành, lại vừa tha thiết.Cư sĩ Trương Thụy Tăng ở Duy Dương, tâm lợi người tha thiết, liền cho khắcin lưu hành, sai Quang phơi bày rõ ràng những điều trọng yếu, hòng trấn áp lòngdục. Do đấy, tôi tường thuật ý chỉ đại khái về “tưởng như kẻ oán, tưởng là bấttịnh”. Tiếp đó, vì anh họ ông ta là Chánh Huân đã qua đời, muốn dùng công đứcnày để truy tiến linh thức, ngõ hầu tội chướng tiêu diệt, phước trí cao rạng, thoátkhỏi Dục Giới ngũ trược, sanh vào chín phẩm liên bang. Do tình hiếu hữu của cưsĩ, nên tôi lại soạn lời tựa bàn định chuyện giữ vẹn luân thường, mong sao nhữngai thấy nghe đều suy xét tường tận thì may mắn lắm thay!Thích Ấn Quang kính soạnLong Khê là hiệu của Vương Kỳ (1498-1583), tự là Nhữ Trung, là một nhà tư tưởng đềcao thuyết Tam Giáo Đồng Quy vào thời Minh. Ông Vương cực lực cổ vũ học thuyết “trihành hợp nhất” của Vương Dương Minh. Những trước tác của ông được biên tập thành bộLong Khê Tiên Sinh Toàn Tập.Lời tựa phổ khuyến thọ trì lưu thông sách Dục Hải Hồi CuồngMối họa cực thảm khốc, cực lớn, cực sâu trong thiên hạ, hễ bộp chộp độngđến, ắt phải táng thân, mất mạng, nhưng nhiều người vẫn ưa thích theo đuổi, lănxả vào, dẫu chết chẳng hối, có lẽ chỉ có mình nữ sắc mà thôi! Những gã cuồng đồbuông lung nơi dục sự, mò hoa, bẻ liễu, trộm ngọc, cắp hương, diệt lý, loạn luân,bại gia, nhục tổ, tiếng ác đồn khắp làng nước, để tiếng nhơ cho con cháu, sốngchẳng được hưởng hết tuổi thọ, chết sẽ đọa vĩnh viễn trong đường ác. Hãy khoannói đến những gã ấy! Ngay như trong tình vợ chồng, những kẻ đắm đuối trong ấyđến nỗi mất mạng, kể sao cho xiết? Vốn mong cầu khoái lạc, bất ngờ chết mất!Cảnh khổ góa bụa, quả thật phần nhiều do chính mình tự chuốc! Há có phải hoàntoàn là do số mạng xui khiến như thế ư? Những kẻ tham luyến chuyện chiếu chăn,đều là tự mình chuốc lấy tai ương. Cũng có kẻ hoàn toàn chẳng luông tuồng, mêđắm, nhưng do không biết kiêng ngừa, cứ mạo muội làm bừa, đến nỗi tử vongcũng rất nhiều! Vì thế, thiên Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Ký có đoạn văn nói vềchánh lệnh: “Chấn đạc bố cáo, linh giới dung chỉ” (Gõ mõ truyền lệnh kiêng kỵchuyện ăn nằm) (“Dung chỉ” (容止) có nghĩa là động tĩnh, tức là chuyện ân ái).Lòng thương dân của bậc thánh vương thời cổ, có thể nói là “chẳng bỏ sót điềunhỏ nhặt nào” (những nơi chỗ kiêng kỵ sách Thọ Khang Bảo Giám có chép rõ,hãy nên đọc kỹ).Tôi thường nói: Trong mười phần nhân dân của thế gian, những kẻ chết trựctiếp vì sắc dục chừng bốn phần, kẻ gián tiếp bị chết, cũng đến bốn phần, tức là dobị sắc dục gây hao tổn, chịu những cảm xúc khác mà chết. Những kẻ bị chết ấy,không ai chẳng đổ thừa cho số mạng, nào có biết vì tham sắc mà chết, đều chẳngphải là do số mạng. Nếu là [chết vì số] mạng, phải là người giữ lòng thanh tịnh,trinh lương, không tham dục sự! Những kẻ tham sắc kia đều là tự tàn hại đời mình,há có thể nói là vì số mạng ư? Còn những người do mạng mà sống, mạng hết bènchết, chẳng qua chỉ được một hai phần đó thôi! Do vậy biết: Quá nửa thiên hạ đềulà kẻ chết oan uổng. Mối họa này khốc liệt có một không hai trong cõi đời, chẳngđáng buồn ư? Chẳng đáng sợ ư? Cũng có cách chẳng phí một đồng, chẳng tốnchút sức, mà trở thành bậc đức hạnh cao tột, hưởng yên vui cực lớn, để lại phướcấm vô cùng cho con cháu, khiến đời sau đạt được quyến thuộc trinh lương, cóphải chỉ là kiêng dè dâm đó ư?Trước kia, tôi đã trình bày đại lược sự lợi, hại trong chuyện dâm tình chánhđáng giữa vợ chồng, nay không bàn đến nữa. Còn chuyện tà dâm vô liêm, vô sỉ,cực uế, cực ác, chính là dùng thân con người để làm chuyện thú vật. Do vậy, gáiđẹp đến tằng tịu, nữ nhân yêu mị đến quyến rũ, quân tử xem như mối họa ươngkhông gì lớn bằng, cho nên cự tuyệt, ắt được phước diệu chiếu soi, hoàng thiênche chở. Tiểu nhân xem điều đó như hạnh phúc không gì lớn lao bằng, bèn nhậnlãnh, ắt đến nỗi tai tinh giáng xuống, quỷ thần tru lục. Quân tử do họa được phước,tiểu nhân do họa mà càng thêm họa! Vì thế nói: “Họa phước không có cửa, docon người tự chuốc lấy”. Nếu đối với cái ải nữ sắc, người đời chẳng thể thấy thấusuốt triệt để, sẽ khiến cho “đức hạnh cao tột, an lạc cực lớn, phước ấm vô cùng đểlại cho con cháu, quyến thuộc trinh lương trong đời sau” đều bị khoảnh khắc hoanlạc đoạt hết! Buồn thay!Cuốn sách Dục Hải Hồi Cuồng của An Sĩ tiên sinh đã chia môn, phân loại,trình bày rành mạch. Tài văn bút khiến cho kẻ tục người nhã đều cùng thích xem,trần thuật, khuyên lơn, răn dạy, thảy đều tha thiết. Cội nguồn, ngành ngọn củanhững chuyện xưa nay “người không dâm được phước, kẻ phạm dâm mắc họa”đều ghi chép tỉ mỉ, lớn tiếng gào to, chẳng tiếc sức thừa. Trống khuya, chuôngsớm, lay tỉnh con người sâu xa, muốn khiến cho người khắp cõi đời đều hưởngphước lạc, ai nấy hưởng hết tuổi trời mới thôi! Cần biết: Sách này tuy vì răn dạykiêng dâm mà soạn ra, nhưng về nghĩa và đạo thì phàm là những pháp cai trị đấtnước, bình trị cõi đời, tu thân, tề gia, cùng lý tận tánh, liễu sanh thoát tử, thảy đềutrọn đủ! Nếu khéo lãnh hội, thần trí sẽ sáng suốt, đâu đâu cũng thấy được nguồn,những gì chạm vào mắt sẽ đều là đạo. Có thể nói: Tâm thương đời cứu dân tột bậcsâu đậm, thiết tha!Do vậy, vào năm Dân Quốc thứ bảy (1918), Ấn Quang đặc biệt đưa bộ AnSĩ Toàn Thư sang khắc ván tại Tàng Kinh Viện ở Dương Châu. Năm Dân Quốcthứ tám (1919), lại cho khắc riêng lẻ hai bộ Dục Hải Hồi Cuồng và Vạn ThiệnTiên Tư. Năm Dân Quốc thứ mười (1921), lại quyên mộ in bộ An Sĩ Toàn Thưtheo dạng rút nhỏ. Tính in mấy mươi vạn bộ để truyền bá khắp toàn quốc, nhưngdo người hèn, đức mỏng, không có cách nào cảm thông, chỉ in được bốn vạnquyển mà thôi. Trung Hoa Thư Cục in riêng để bán, cũng gần đến hai vạn bản.Hàng Châu, Hán Khẩu đều bắt chước in theo, số sách được in đương nhiên cũngkhông ít. Nhờ có cư sĩ Ngô Tử Tường người đất Thái Thương, tỉnh Giang Tô, nghĩhọa hại thế gian ngày càng nặng nề, những tân học phái đề xướng phế bỏ luânthường, tiết hạnh, chuyên chủ trương tự do luyến ái như đê bị vỡ, nước mặc sứcchảy ào ạt, khiến cho mọi thanh niên nam nữ cùng bị hãm trong vùng nước xoáycủa biển dục không đáy. Ông bèn phát tâm in rộng rãi bộ Dục Hải Hồi Cuồng, thítặng khắp mọi người trong xã hội để mong đẩy lùi cơn sóng cuồng loạn. Chí củamọi người tạo thành bức thành, nhiều người nâng, dễ giở lên, khẩn thiết xin nhữngDiệu (曜) và tinh (星) đều có nghĩa là những ngôi sao, phước diệu (福曜) là ngôi sao tốtlành, tai tinh (災星) là ngôi sao rủi ro. Phước diệu và tai tinh có nghĩa là vận tốt và vậnrủi.bậc quân tử nhân từ trong nước, hãy phát tâm cứu thế lớn lao, tùy sức ấn tống vàkhuyên bảo kẻ hữu duyên phổ biến lưu thông. Lại mong cha dạy con, anh khuyênem, thầy răn trò, bạn bè bảo ban nhau, khiến cho người người đều biết họa hại,lập chí như núi, giữ thân như ngọc. Không chỉ là chẳng phạm tà dâm, mà ngay cảdâm sự chánh đáng giữa vợ chồng cũng biết chừng mực. Sẽ thấy quan, quả, cô,độc từ đây ngày càng ít, giàu, thọ, mạnh, khỏe, yên ổn, ai nấy đều đạt được. Thânthể, nhà cửa do đấy mà được yên ổn, tốt lành, cõi nước vì thế mà an ninh, uế đứcchuyển thành ý đức (懿德: đức tốt đẹp), tai ương biến thành may mắn, tốt lành,rốt ráo, chẳng phí một đồng, chẳng nhọc chút sức, lại đạt được hiệu quả mỹ mãnnhư thế đó! Mong sao người nhân từ, bậc quân tử, đều thấy chuyện nhân chẳngnhường, vui vẻ mà làm. Do vậy, trần thuật những ý chánh để cống hiến nhữngngười cùng hàng.Năm Dân Quốc 16 (1927), Thích Ấn Quang soạn* Phụ lục: Đức cao đẹp đáng ngưỡng mộ(theo Dương Châu Cam Tuyền Huyện Chí)Đời Nguyên, Tần Chiêu là người Dương Châu, đến tuổi nhược quan, lênkinh đô chơi. Đã lên thuyền, có một người bạn họ Đặng đem rượu tới tiễn chân.Đang trong lúc uống rượu, chợt có một nữ nhân tuyệt sắc ngồi kiệu tới. Ông Đặngbảo cô ta chào Tần Chiêu rồi bảo: “Cô này chính là người thiếp do tôi mua giùmcho vị đại nhân X… ở bộ Y… Tiện dịp, nhờ ông mang cô ta theo”. Tần Chiêu đôiba lượt từ chối. Ông Đặng lộ vẻ giận, nói: “Sao ông cố chấp như thế! Nếu chẳngthể kiềm chế, cô này sẽ thuộc về ông; bất quá là hai ngàn năm trăm đồng màthôi!” Tần Chiêu bất đắc dĩ phải nhận lời. Khi ấy, tiết trời đã nóng, muỗi rất nhiều.Cô gái khổ sở vì không có mùng. Tần Chiêu bảo cô ta ngủ chung mùng với mình.Theo đường sông, qua mười mấy ngày đến kinh thành. Tần Chiêu gởi cô ấycho bà chủ quán trọ, tự cầm thư đến xin gặp người ấy. Nhân đó, người ấy hỏi:“Ông đến đây có mang theo gia quyến hay không?” Tần Chiêu thưa: “Chỉ có mìnhtôi”. Mặt người ấy bỗng lộ vẻ giận, nhận thư của ông Đặng, miễn cưỡng sai đóncô gái ấy về nhà. Đến đêm, mới biết cô ấy vẫn còn trong trắng. Người ấy cảmthấy hổ thẹn khôn cùng! Hôm sau, liền gởi thư cho ông Đặng, hết mực ca tụngđức hạnh của Tần Chiêu; đến gặp ông Chiêu, thưa: “Các hạ đúng là bậc quân tửNhược quan (弱冠): Thời cổ, khi nam giới đủ hai mươi tuổi, sẽ cử hành lễ đội mũ, gọi làlễ Gia Quan, búi tóc lên, đội mũ, hòng nhắc nhở người thanh niên đã đến tuổi trưởngthành, phải biết gánh vác trách nhiệm. Tên tự cũng được đặt vào lúc này. Về sau, từ ngữ“nhược quan” dùng để chỉ tuổi hai mươi.đức dầy, ngàn đời ít có! Ngày hôm qua, tôi rất sức ngờ vực, đã dùng bụng dạ tiểunhân suy lường tấm lòng quân tử, thẹn thùng khôn xiết!”Nhận định: Nếu tâm Tần Chiêu chẳng phải là không có ham muốn, chánhniệm thiên lý, ngày cùng ăn, đêm cùng ngủ với cô gái tuyệt sắc ấy, lâu tới mườimấy ngày, há có thể chẳng có ham muốn tình dục ư? Cố nhiên, Tần Chiêu là bậcquân tử đức dầy, cô ấy cũng thuộc hạng thục nữ trinh khiết. Đức đẹp và tấm lòngtrung trinh, khiến cho kẻ khác kính ngưỡng. Do vậy, ghép vào đây hòng lưu thôngrộng rãi!Năm Dân Quốc 16 (1927), tức năm Đinh Mão, Thích Ấn Quang ghiCẢNH HUẤNHuấn sức sĩ tử giới dâm văn (Bài văn khuyên bảo sĩ tử kiêng dâm)Văn Xương Đế Quân nói:- Trời thường giáng họa cho kẻ dâm dật, sự báo ứng ấy rất nhanh chóng. Conngười chẳng sợ, vô tri say mộng. Nếu chẳng biết kiểm điểm hành vi, tai ương sẽlập tức ùa tới. Này mọi người ơi! Hãy nghe lời ta răn: Chỉ có tích đức, hành thiện,mới được tốt lành, từ xưa đã nói như vậy! Làm chuyện bất thiện, tai ương giángxuống! Người xưa đã răn dạy rõ: Thời Xuân Thu, do dâm loạn [mà các vua chưhầu] đều bị nước mất, nhà tan! Các bài Phong, Nhã [trong kinh Thi]10 đã từng chêtrách nhằm dứt sạch chuyện cặp kè, đàn đúm. Vì thế, trái nghịch lý, chính là tựgiết chết tánh mạng; tham dâm sẽ tự hủy thanh danh. Người làm chuyện trái lẽ,lòng trời hết sức giận dữ. Thượng Uyển thơm ngát mùi quế, chẳng phải là kẻ giữmình trong sạch, ắt khó bước vào. Yến tiệc chiêu đãi tân khoa do vua ban, há kẻô danh được hưởng? Ta cai quản công danh, thường ban lời dạy bảo. Hiềm rằngsĩ tử chỉ tham hoan lạc phút chốc, chẳng tiếc tương lai cả đời. Hễ dâm loạn [vợcon của] người ta, sẽ bị người ta dâm loạn [vợ con của chính mình], giống nhưtrao đổi buôn bán ngoài chợ vậy! Nghiệp báo thảm khốc, ai là kẻ rửa sạch lòng?Kinh Thi được chia thành ba phần là Phong, Nhã, và Tụng. Phong (風) là ca dao của mườilăm nước chư hầu. Nhã (雅) có nghĩa là đứng đắn, tức là âm nhạc trong triều đình vànhững nhạc khúc thời cổ. “Nhã” trong kinh Thi chính là những lời ca của những khúc nhạctrong triều đình nhà Châu. Tụng (頌) là lời ca được sử dụng trong tế lễ tại tông miếu.Đây là nói đến một bài thơ trong kinh Thi, thuộc phần Quốc Phong, tiểu loại Dung Phong(tức là dân ca ở đất Dung), ngụ ý chê bai nàng Tuyên Khương nước Vệ dâm loàn, có thuyếtnói đây là bài thơ than thân trách phận của Vệ Tuyên Khương. Bài thơ như sau: “Thuầnchi bôn bôn, thước chi cương cương, nhân dĩ vô lương, ngã di vi huynh. Thước chi cươngcương, thuần chi bôn bôn, nhân dĩ vô lương, ngã dĩ vi quân” (Chim cút cặp kè từng đôi,chim khách cũng sống theo nhau từng đôi, kẻ ấy vô lương, ta phải nhận là anh. Chim kháchsống theo nhau từng đôi, chim cút cũng sống theo nhau từng đôi, kẻ ấy vô lương, ta phảinhận là vua). Nàng Tuyên Khương chính là con gái đầu của Tề Hy Công (Khương Lộc Phủ),vốn đã được hứa gả cho thế tử Cấp nước Vệ. Nhưng vua cha là Vệ Tuyên Công do mê saysắc đẹp của Tuyên Khương, đã cố ý sai thế tử Cấp đi sứ nước Tống trước ngày hôn lễ, thừacơ chiếm con dâu làm vợ. Một người con khác của Vệ Tuyên Công là công tử Sóc đã lậpmưu hãm hại thế tử Cấp. Sau khi Tuyên Công chết, công tử Sóc lên làm vua, tức là Vệ HuệCông. Khi Vệ Huệ Công đi họp chư hầu, các quần thần cũ đã lập công tử Kiềm Mâu lên làmvua chống lại Huệ Công. Vua nước Tề khi ấy là Tề Tương Công (anh trai của TuyênKhương), sợ dân Vệ sẽ giết chết Tuyên Khương, bèn bày kế gả Tuyên Khương cho công tửThạc vốn là con trai thứ của Vệ Tuyên Công, nghĩa là từ địa vị mẹ kế, Tuyên Khương lạilấy con chồng! Tuyên Khương hết sức vui thích, nhưng công tử Thạc cự tuyệt. Đại phunước Vệ là công tử Chức sợ nước Tề kiếm cớ xâm lăng, bèn mời công tử Thạc ăn tiệc,chuốc rượu say, rồi đưa công tử Thạc vào phòng Tuyên Khương. Tỉnh rượu, trước chuyệnđã rồi, Thạc phải lấy Tuyên Khương làm vợ. Bài thơ ngụ ý chê trách những người như VệTuyên Công, Vệ Tuyên Khương vì tham dục mà còn thua kém cả loài chim luôn giữ trọntình chung thủy.Ta vào mỗi dịp thi cử trong tháng Hai, tháng Tám, thường vào dịp đó, chọn lựa,loại bỏ [những kẻ trúng tuyển]. Một nét bút xóa tên, chỉ vì gã đó ngấm nghé vợngười hàng xóm. Đề thêm tên kẻ khác [sẽ thi đỗ], vì người ấy cự tuyệt gái chưachồng [lả lơi]! Muốn nghe sấm dậy đất bằng, tấc lòng đừng nổi lửa! Kẻ suốt đờithi cử lận đận, há có phải là kẻ chẳng siêng khổ học hành, văn tài cao ngất? Suốtđời truân chiên, đều là do chẳng tuân quy củ, hủy hoại danh tiết. Kẻ sĩ chẳng suyxét nguyên do, ngược ngạo oán trời, hận đất! Thi đỗ tiến sĩ, chỉ do nội tâm. Khoácáo bào tía, toàn là do âm chất. Trong khuôn viên trường thi, chỗ nào cũng đềucó thần [giám sát]. Trong phạm vi của tam trường khảo thí, đều có quỷ [báooán]. Tiếc thay! Từng chữ đều như châu, như ngọc, chợt muội đèn rơi bẩn quyểnvăn. Hận sao! Từng đoạn văn như dệt gấm, thêu hoa, bỗng vết mực khiến bài vănlem luốc! Lúc ấy, thật sự do ta chủ trì, ai bảo “trời xanh không có mắt”? Kẻ đỗtam nguyên, ắt có đức kinh động thần minh. Sen nở liền cuống, bỗng chốc nghechuyện xấu nhụy rụng tan tác. Nếu có thể giữ cho thân tâm chánh trực chẳng tà,tự nhiên sẽ danh thành, lộc đạt. Đặc biệt ban lời huấn dụ mới mẻ, ngõ hầu ai nấyđều hay biết.(Hiện thời, tuy không còn khoa bảng, nhưng [nguyên nhân gây nên] tổnphước, giảm thọ, cố nhiên là chẳng khác! Đừng suy nghĩ bộp chộp, bảo “hiệnthời chẳng giống như xưa. Dẫu có trót phạm, chẳng đến nỗi trở ngại công danh”,mặc tình làm bừa, mong lắm thay!)Câu này là viết theo ý thành ngữ: “Bình địa nhất thanh lôi” (Sấm dậy nơi đất bằng), ngụý: Biến động to lớn đột nhiên phát sanh, ở đây là nói tới chuyện sĩ tử thi cử đỗ đạt. Bào tía (tử bào, 紫袍): Áo bào màu tía (Bào là một loại lễ phục rộng tay) là triều phục(áo mặc đi chầu vua) của các vị đại thần. Tam trường (三場) là ba giai đoạn thi cử ngày xưa: Hương Thí, Hội Thí và Điện Thí (ĐìnhThí). Tam nguyên (三元), gọi đủ là “tam nguyên cập đệ” hoặc “liên trúng tam nguyên” là đỗđầu trong cả ba kỳ thi Hương, Hội và Đình. Người đỗ đầu thi Hương gọi là Giải Nguyên,đỗ đầu kỳ thi Hội là Hội Nguyên, đỗ đầu kỳ thi Đình là Trạng Nguyên. Tam Nguyên rất khóđạt, trong lịch sử Trung Hoa, mỗi triều đại chỉ có một hai vị được như vậy, riêng đời Tốnglà có sáu trường hợp. Chẳng hạn nhà Đường tồn tại khá lâu, thế mà chỉ có hai người đỗTam Nguyên là Thôi Nguyên Hàn và Trương Hựu Tân. Không biết Việt Nam có bao nhiêutrường hợp như vậy, chỉ thấy sách vở thường nói đến cụ Tam Nguyên Yên Đổ (NguyễnKhuyến). Hai hoa sen nở chung một cuống (liên khai tịnh đế, 蓮開並蒂) được coi là điềm tốt lành.Cả câu này hàm ý: Người đáng đỗ cao, do chẳng kiêng tà dâm, trót làm chuyện xằng bậy,nên phút chốc công danh bỗng trở thành hư huyễn. Xin xem chuyện tường sanh họ Uôngở Phượng Dương trong phần Họa Dâm Án.Giới dâm thánh huấnVăn Xương Đế Quân ban lời huấn dụ:- Ta phụng mạng của đấng Kim Khuyết Chí Tôn, mỗi tháng vào ngày Dần,Mão, đi tuần tra Phong Đô địa ngục, xem xét những chuyện phạm tội của nhândân trong thiên hạ. Thấy sổ đen (sổ ghi tội ác) như núi, đều là [sổ sách ghi chép]những bản án về tạo tội oan nghiệt trong một đời của người đời. Trong ấy, có lắmnỗi làm ác; chỉ có điều, đối với sự báo ứng của tội dâm ác, luật trời nghiêm khắcnhất. Kẻ gian dâm vợ con, điếm nhục khuê môn của kẻ khác, sẽ chịu khổ trongđịa ngục năm trăm kiếp, mới được thoát ra, lại sanh làm lừa, làm ngựa năm trămkiếp nữa, rồi mới lại được làm người. [Đã làm người, lại thành] ả đào, con hát! Kẻbày mưu tính kế, gian dâm gái góa, ni, tăng, làm chuyện bại hoại tiết tháo củangười khác, sẽ chịu khổ tám trăm kiếp trong địa ngục, rồi mới được thoát ra, sanhlàm dê, làm lợn, dâng thân cho kẻ khác giết mổ tám trăm kiếp nữa, sau đấy mớiđược làm người, mù lòa, câm ngọng! Kẻ rối loạn tôn ty, hoặc kẻ trưởng thành dâmloạn trẻ nhỏ, tổn hại cương thường, sẽ chịu khổ một ngàn năm trăm kiếp trong địangục mới được thoát ra, sanh làm rắn, làm chuột một ngàn năm trăm kiếp nữa, rồimới được làm người. [Thế nhưng], hoặc là còn trong ở trong bụng mẹ đã chết,hoặc đang độ tuổi ẵm ngửa đã mất mạng, rốt cuộc chẳng hưởng trọn tuổi trời!Lại có kẻ sáng tác dâm thư, mang tâm thuật hại người, chết rồi sẽ đọa vàoVô Gián địa ngục, mãi cho đến khi sách ấy diệt mất, tội báo của những kẻ do sáchấy mà trót làm ác thảy đều rỗng không, [gã tác giả] mới được thoát sanh. Dâm thưgây hại chẳng thể kể xiết! Thường có những khuê nữ danh giá, nữ nhân hiền thục,do biết chữ, hiểu văn chương, hoặc vào lúc ban ngày thanh tĩnh, bên song rợpbóng cây xanh, hoặc khi đêm vắng, dưới ngọn đèn xanh, mở sách ra xem, hồnphách điên đảo, khôn ngăn lửa dục hừng hực, bèn làm những chuyện dâm bôn,vụng trộm, đến nỗi tiết phụ thất tiết, trinh nữ mất trinh! Lại có những đứa con emthông minh, vừa tuấn tú, vừa có văn tài, hễ xem sách ấy, bèn dấy lên dục tưởng,hoặc thủ dâm chẳng thể khống chế, hoặc mắt đi mày lại, chung chạ bừa bãi! Nhẹthì tổn hại nguyên dương, tuổi trẻ đã chết non, lớn thì vấy bẩn, rối loạn luânthường, kỷ cương, chẳng xứng làm Nho sĩ! Lại còn có kẻ khéo soạn truyện ký đểdiễn xuất tại chỗ, dạy dỗ tập luyện bọn trai bao phô bày đủ vẻ dâm đãng, rốiloạn tiết tháo thanh sạch của kẻ khác, chẳng thể kể xiết!Nguyên văn “bế đồng” (嬖童), còn gọi là “luyến đồng”, từ ngữ dùng để chỉ những kẻ mãidâm nam, thường là chưa đến tuổi thành niên. Thuở trước, còn có những kẻ khá giả, nuôinhững bé trai xinh đẹp trong nhà dưới danh nghĩa là người hầu sai vặt, thường gọi là “thịđồng” (thằng hầu) hoặc “thư đồng” (người hầu trong việc đọc sách, lo dọn dẹp thư phòng,mài mực, xén giấy, thắp nến, châm đèn, sắp xếp sách vở), nhưng trên thực tế là bạngiường. Những kẻ như vậy thường được gọi châm biếm là “luyến đồng”.Xét đến căn do, đều do dâm thư tạo thành. Cớ sao sĩ tử nắm chiếc bút bảytấc, dùng huệ căn đời trước [để sáng tác dâm thư], chẳng nghĩ đến chuyện ích lợicho cõi đời, tích phước cho bản thân, cứ mong tạo oan nghiệt vô cùng, khiếnThượng Đế nổi giận. Tự nhảy vào vực băng, hầm lửa, chẳng biết tự thương xótchính mình. Đáng buồn quá đỗi!Giới dâm vănTừng nghe: Biển nghiệp mịt mù, không có gì khó đoạn bằng sắc dục! Hồngtrần rối ren, dễ phạm chỉ có tà dâm. Bậc anh hùng cái thế [có chí] dời non dẹpnúi, do lỗi này, vong thân, diệt quốc! Bậc tài hoa “tâm gấm, miệng thêu”, vì lẽnày, danh tiết bại hoại! Xưa nay đều cùng một lẽ; kẻ hiền, người ngu, đều theomột lối. Huống hồ, thói vứt bỏ thuần phong mỹ tục ngày càng lẫy lừng, đạo đứctừ cổ đã bị chìm đắm. Lũ trẻ tuổi khinh cuồng, tất nhiên đắm đuối trong chốnphấn son! Bậc văn nhân thông huệ, cũng bắt chước thói “áo xanh ướt đẫm”!Nói “diệt dục”, mà dục niệm càng thịnh, gấp bội; nghe răn dâm, mà ý dâm cànglừng! Trên đường sá, gặp hình dáng yêu kiều, mắt nhìn chăm chú ngàn phen. Thấybóng sắc lộng lẫy sau rèm khuê các, tâm rạo rực trăm bề. Thân luôn bị sai khiếnbởi tâm, thức luôn bị tình lôi dắt. Gặp bà lão tầm thường, nhan sắc héo tàn, nếungẫu nhiên cài cỏ, giắt hoa, cứ tưởng Tây Thi. Ả nông dân vóc dáng thô kệch, nếuthoa hương, bôi xạ, chợt quên hình dáng Đông Thi.Nào biết trời đất khó dung, thần, người căm giận! Nếu hủy hoại tiết hạnhngười khác, vợ con ta sẽ phải đền bồi. Ô nhục thanh danh kẻ khác, cháu con mìnhmai sau chịu báo. Phần mộ không người cúng bái, không gì chẳng phải [là chốnvùi thân] của gã cuồng sinh khinh bạc. Tổ tông của gái làng chơi, toàn là bọn lãngtử tham hoa đắm liễu! Số vốn giàu sang, [do tham dâm], sổ lộc bị tước mất lầungọc. Đáng phận hiển vinh, [do phóng đãng], bảng vàng tên xóa. Lúc sống bị ngũhình hành hạ, roi, gậy, lao dịch, lưu đày, tử hình. Khi thác, thọ tội trong tam đồ,địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Xưa kia ân ái, tới nay chẳng còn chi. Hùng tâm thuởtrước, nay ở chỗ nào? Khuyên khắp thanh niên, chí sĩ, tên lưu quyển vàng, hãydấy lòng giác ngộ, phá trừ chướng ngại ma sắc. Mặt trắng mơn mởn như đóa phùdung, phải biết là đầu lâu đắp thịt. Diện mạo xinh đẹp, phấn son rực rỡ, bất quááo đẹp che đậy cầu tiêu thô lậu! Đối trước dung mạo như hoa, như ngọc, tâm đềucoi như chị, như mẹ. Kẻ chưa phạm lỗi tà dâm, hãy nên phòng ngừa lỡ bước.Người từng làm chuyện ác, hãy gấp quay đầu. Mong sao xoay vần lưu thông,“Áo xanh ướt đẫm” là một từ ngữ bắt nguồn từ một câu thơ trong bài Tỳ Bà Hành củaBạch Cư Dị: “Giang Châu tư mã thanh sam thấp” (Áo xanh của quan tư mã Giang Châu ướtđầm). Trong bài hành ấy, Bạch Cư Dị nghe kỹ nữ đánh đàn đã cảm thương thân phận côta, cám cảnh phận mình bị vua lưu đày. Từ ngữ này được dùng ở đây với ý nghĩa chê trách:Các văn sĩ la cà trà đình tửu quán, uống rượu, nghe đàn, thân cận kỹ nữ. Theo truyền thuyết, thời Chiến Quốc, nàng Tây Thi là mỹ nhân đất Việt, là tuyệt thế giainhân. Dẫu khi nàng đau bụng, nhăn mày, người khác vẫn thấy xinh đẹp bội phần. Hàngxóm có nàng Đông Thi ô dề, thô kệch, cũng bắt chước õng ẹo nhăn mày, khiến cho hàngxóm sợ quá đóng chặt cửa, chồng phải núp kín, chẳng dám ló mặt ra ngoài. “Ngũ hình” là năm hình phạt, tức xi, trượng, đồ, lưu, đại tịch (đánh bằng roi, đập bằnggậy, bắt làm lao dịch, lưu đày và tử hình).khuyên lơn, chỉ bảo lẫn nhau, ngõ hầu nơi nơi cùng về nẻo giác, người người cùngthoát bờ mê!Giới dâm cách ngôn (Những câu cách ngôn răn dạy kiêng dâm)* Chân nhân Trương Tam Phong nói:- Con người sống trong vòng trời đất, bẩm thọ tú khí của Ngũ Hành, sẵn cóchí khí chánh trực. Chồng chồng, vợ vợ, chính là luân thường của loài người. Vượtlễ, loạn luân, sẽ giống như cầm thú. Bậc chí sĩ hãy nên dốc trọn sức ngăn ngừachuyện dâm tà. Trong thiên hạ, loài ngu xuẩn nhất không chi bằng động vật, thếmà bồ câu hễ kết thành đôi, trọn chẳng ăn vụng! Chim nhạn lẻ đôi, tiếng kêu aioán, chẳng chọn bạn đời mới! Người chẳng bằng chim, phụ rẫy danh xưng “conngười”, linh tánh kém thua loài vật! Hiềm rằng những kẻ mù quáng, ngây ngô,chẳng hiểu “Sắc chính là Không”, khác nào bào huyễn, vẫn cứ cùng kẻ mặthồng, tóc mun ân ái triền miên!Há có biết, ai nấy có cùng một tâm; phản tỉnh quán sát, sẽ đều có thể tự ngộ!Khi các ngươi dâm loạn phụ nữ của người khác, hãy nên tự nghĩ: Nếu lúc ấy, vợta bị kẻ khác dâm loàn, cười cợt, giỡn hớt bên gối, tình ý khăng khít, ta ở ngaybên cạnh, thấy tình hình ấy, ắt sẽ tâm như bị đâm, tròng mắt đổ lửa, hùng hổ truysát, quyết chẳng chần chừ! Sao lại đến nỗi gian dâm phụ nữ của kẻ khác, quênbẵng, chẳng nghĩ lại! Đột nhiên suy xét, há còn [đối với chuyện dâm loạn vợ conngười khác] rêu rao, đắc ý được chăng? Khi ấy, thiên địa, quỷ thần, soi xét bêntrên, chất vấn bên cạnh, oán, giận khôn cùng, muốn giết, muốn chặt ngươi! Có vịnào chẳng trợn mắt, nghiến răng, nghĩ cách báo ứng ư? Tai họa dấy lên, đến nỗixoay sở chẳng kịp. Đã nói đến chỗ này, há chẳng nguội lạnh tấm lòng ư?Hơn nữa, [do gian dâm] mà bỏ mạng dưới gươm bén, nát đầu nơi bậc thềmhàng xóm! Giấc mộng dương trần chưa hết, đã vùi thân dưới chốn tuyền đài! Lửama trơi xanh biếc, máu thắm đỏ ngầu, đều do bọn son phấn gây nên. Mỹ nhânvốn là cọp thoa son trát phấn, há chẳng tin ư? Dẫu chẳng đến nỗi [táng mạng ngaylập tức] như vậy, nhưng đối với kẻ gian dâm vợ người khác, kẻ có thế lực ắt sẽthưa kiện, đòi hỏi công đạo, kẻ yếu thế ắt sẽ nuốt hận suốt đời, tông tộc đeo nỗinhục chẳng giải trừ, vợ chồng cũng dứt tình trăm năm son sắt. Sống chết khônlường, lắm nỗi đổi thay! Hoặc ngấm ngầm mưu tính trả thù, hoặc âm thầm đaulòng, hổ thẹn. Cha ông vốn chẳng có lỗi lầm to lớn, nhưng kẻ ngoài cuộc ức đoán:[Chắc tổ tiên gã xấu ác ấy là phường] cực ác, nên mới đến nỗi có hạng con cháu[hoang đàng] dường ấy, điếm nhục thanh danh nhiều đời! Để lại con rơi cho ngườikhác, rối loạn tông tộc. Dẫu [đứa con rơi ấy] đỗ đạt làm quan, tiếng tăm lừng lẫy,rốt cuộc cũng mang tiếng xấu vô cùng, [vì thân phận bất minh]. Đã chẳng xứnghợp nhân luân, lại còn truyền mãi tiếng chê cười! Do đó nói: Nỗi thảm độc sát Bào: bọt nước, huyễn: Hình tượng hư giả.nhân, chỉ ảnh hưởng một người, [còn chuyện gian dâm] như lưỡi gươm bén khôngdấu vết, giết người suốt mấy đời!Nói chung, dâm niệm bắt nguồn từ hiếu sắc. Muốn dứt cội rễ lòng dâm, trướchết, phải giữ sắc giới nghiêm ngặt. Hễ hiếu sắc, ắt sẽ tham dâm, ắt thân ta bấtchánh. Hễ đối trước bóng sắc mềm mại mê người, chẳng thể tự khống chế, ắt phầnnhiều sẽ bị kẻ khác kiềm chế. Do vậy, sẽ cư xử theo lẽ tư tình, phế trừ hiếu hữu!Vứt bỏ cha, mẹ, anh, em, chẳng hề đoái hoài! Ngoại trừ chuyện ham muốn điềunày ra, mọi chuyện đều mơ màng, không hiểu biết! Do vậy, đối với thê, thiếp, concái, chẳng bận tâm kềm cặp, răn ngừa, mặc cho chốn buồng thêu rối loạn, uế tạp.Đấy là báo ứng âm thầm, vẫn cứ mơ màng, chẳng biết.Đã thế, kẻ hiếu dâm con cháu sẽ chết non, hậu duệ cũng lơ thơ, suy bại! Cớsao? Vì con cháu chính là sản phẩm tinh thần của ta. Nay đem tinh thần hữu hạn,dành hết vào chuyện tìm hoa hỏi liễu vô cùng. Ví như dùng rìu đẵn cây, nhựa câyđã cạn, quả trái ắt cũng tiêu rụng! Tinh thần của chính mình còn bải hoải, chẳngtrọn đủ, mong chi tập trung nơi thân con cái! Vì thế, sanh con ít ỏi, yếu đuối làchuyện đương nhiên! Dâm căn của cha mẹ chẳng dứt, thân con bẩm thọ khí chất[cha mẹ], nói chung đều chẳng ra gì! Lại truyền dòng nối dõi, đã bạc nhược, lạicàng bạc nhược hơn! [Rốt cuộc] dòng dõi tuyệt diệt, [đó là chuyện] xứng hợp lẽthường! Ương họa dữ dội vì dâm, kể sao cho xiết!Than ôi! Con người thọ được mấy chốc, trăm năm chớp mắt đã qua! Dẫuchẳng đoái hoài danh tiết, không tiếc thân mạng, sao không nghĩ tới cháu con,chẳng mưu tính chuyện phụng thờ tổ tông? Nếu biết nghĩ suy, ắt sẽ hối hận chẳngxuể! Vui sướng nỗi gì, mà vẫn mong theo đuổi dục vọng? Đến nỗi ni tăng, góaphụ, con sen, chị ở, ả đào, kỹ nữ, [những kẻ ấy] đều có mối liên quan, ràng buộcđến danh phận và gia đình ta, càng dễ thấy rõ, chẳng cần phải rườm lời! Người cóchí, ắt lấy thanh tịnh làm nền tảng, giữ lòng thành kính, kiên nhẫn giữ gìn, lập chíquyết liệt, giữ tâm bất động, hòng bồi dưỡng đức hạnh của chính mình. Hết thảynhững sách vở dụ người sụp bẫy, xúi giục lòng dâm, đều giao cho ngọn lửa mạnh,hòng tạo phước cho dân đen trong thiên hạ. Bạn ác dâm đãng, hãy xa lánh, chẳnggiao du. Thay đổi cái tâm hiếu sắc, gom góp tinh thần, mong cầu làm chuyện hữuích, sẽ thấy có danh nào mà chẳng lập, có lợi nào mà chẳng đạt được? Ngũ phướcbất tận, rốt cuộc sẽ trọn đủ nơi thân ta. Tôi khuyên lơn như thế đó!* Uông Châu Thứ nói:- Trong các ác nghiệp, chỉ có sắc là dễ phạm nhất. Khiến cho đức hạnh bạihoại, chuốc lấy tai họa, cũng không gì hơn được chuyện này! Hãy thường nghĩ tớicâu “vạn ác dâm vi thủ” (muôn điều ác, dâm đứng đầu). Trong thế gian, ác nghiệpvô cùng, cớ sao coi dâm là nghiệp nặng nề nhất? Ấy là vì dâm niệm vừa sanh, cácniệm [xấu ác] đều khởi! [Nếu như] tà duyên chưa hội đủ, vì cái tâm huyễn vọngđã sanh, [do nhận thấy] không có cách nào dẫn dụ kẻ khác, tâm bèn bày mưu tínhkế. Nếu gặp đôi chút trở ngại, bèn sanh lòng sân hận. Dục tình điên đảo, sanh tâmtham luyến. Do hâm mộ những gì người khác đang có, bèn sanh lòng ghen ghét,đoạt người yêu dấu của người ta, sanh tâm sát hại, chôn sạch liêm sỉ, luân lý sứtmẻ. Đủ mọi ác nghiệp do vậy mà dấy lên. Các thứ thiện nguyện, do vậy tiêu mất.Vì thế nói: “Muôn điều ác, dâm đứng đầu”. Hễ dâm tâm dấy động, dẫu chưa thậtsự làm chuyện ấy, đã chất chứa, tạo tác ác nghiệp như thế! Huống hồ những kẻcông khai thực hiện, chẳng biết nể nang ư? Cõi đời có bậc thiện nhân trung hậu,nhưng thân thể về sau chẳng khá, hoặc bậc văn nhân tài hoa, suốt đời nghèo túng,thất vọng, nguồn bệnh đều do lẽ này. Nay muốn đoạn trừ căn bệnh ấy, hãy nêntrong lúc dấy niệm, chặt đứt gốc bệnh. Thái Thượng [Cảm Ứng Thiên] chẳngquở “tư mỹ sắc” (私美色: sở hữu người có sắc đẹp), mà nói “kiến tha sắc mỹ,khởi tâm tư chi” (thấy người khác có sắc đẹp, dấy tâm riêng tư). Ấy là vì chỉ dấylên cái tâm ấy, tội đã chẳng thể trốn được!* Giết người chỉ ảnh hưởng một thân; gian dâm cùng người khác, độc hạiđến mấy đời! Không chỉ chồng người ấy mang tiếng chẳng biết trông chừng vợcon, mà suốt đời còn khó thể ngẩng đầu! Trên là bố mẹ chồng, dưới là con cái,chẳng ai không xấu hổ, mặt ủ, mày chau, đau thấu tâm can. Cũng có khi, chồnggiận giết vợ, cha vì giận mà giết con gái. Thậm chí vì chuyện ấy, tuyệt đường concái của người khác, chấm dứt dòng dõi của người ta! Cũng nên nghĩ: Sướng vuithoáng chốc, đạt được những gì? Vô duyên vô cớ đẩy vợ con nhà lành vào hầmlửa, chẳng màng trong cõi âm sẽ có báo ứng rành rành! Sao mà tấm lòng tàn nhẫnquá sức vậy?* Người ở góa, quyết giữ tiết hạnh, vốn do một điểm trinh tâm, quỷ thầnkính ngưỡng. Nay do mày đi mắt lại, khiến tâm người ấy dao động, chẳng còn giữnổi mình! Tiết hạnh khổ nhọc gìn giữ trước kia, chốc lát mất sạch! Tội ác [dụ dỗấy] to lớn cùng cực, chẳng có gì to hơn! Đến nỗi chốn khuê các tan hoang, chẳngmàng tiếng xấu đồn khắp, mọi người cùng ghét bỏ. Dẫu có người xin cưới, thườnglà sẽ bị lộ chuyện, [bị nhà chồng] đuổi về! Cha mẹ nuốt thẹn, anh em đeo nhục!Do vậy, có người phẫn uất quyên sinh, hoặc vì uất ức mà tổn thương thân thể. Cóoán cừu gì với người ấy mà cứ phải làm chuyện hại người, hại mình vậy thay?* Phụ nữ há biết lẽ cao xa? Hoặc do yêu mến, hâm mộ nhất thời, bèn nguyệnkết vầy loan phụng. Hoặc do trẻ tuổi, thiếu hiểu biết, xiêu lòng trước những lờidụ dỗ xấu xa. Đáng thương ngọc trắng không tỳ vết, bỗng bị lấm lem. Về sau, dẫuhối tiếc suốt đời, nỗi dâm ô một thuở chẳng có cách nào gột rửa! Cũng có kẻ domột phen nhuốm bẩn, bèn đánh mất liêm sỉ cả đời, [cam bề đọa lạc]! Nói đến chỗnày, đúng là nguội lạnh tấm lòng! Vì thế, bậc quân tử thời cổ, tuy kẻ khác (nữnhân) nắm tay áo chèo kéo, hoặc vén màn kề cận, không ai là chẳng nghiêm trangcự tuyệt, đẩy lùi cơn sóng cuồng loạn mê đắm của ả mày ngài, khéo léo chỉ bày,căng buồm gấm, dẫn về bến đạo. Nếu có thể giữ lòng thơm thảo, giữ vẹn trinh tiết[cho người nữ ấy]; đấy cũng chính là do tổ tiên mấy đời [gia hộ, khiến cho ngườinữ ấy] được hưởng ân trạch sâu dầy của bậc có lòng nhân!* Đối với con sen, tớ gái, [chủ nhân] dễ làm chuyện gian dâm nhất! Chẳngbiết những hạng người ấy, vốn là lương dân, bất quá do gặp hoạn nạn, mà phảikhuất thân làm tôi tớ. Do nghèo hèn mà tự bán mình, hiềm rằng đã làm thân tôimọi, [chủ nhân lại nỡ lòng giở trò gian dâm] rối loạn phẩm tánh của họ ư? Huốngchi, nếp nhà chẳng nghiêm, gia đạo bất hòa, phần lớn đều là do chuyện này. Hoặclà vợ ghen tức, đánh đập [tớ gái] đến nỗi tổn thương sanh mạng; hoặc là kẻ tôi tớhung hãn cắn ngược lại chủ. Hoặc cha con do chẳng hay biết, mà cùng lấm chungbụi trần, hoặc anh em cùng mê muội chung chạ [với một nàng hầu]. Quá đánghơn nữa, mặc kệ ruột thịt máu mủ của mình vất vưởng trong hàng tôi tớ. Con cháuđời sau chẳng hay biết, lầm lẫn làm chuyện ô nhục, [tạo thành nỗi nhục loạn luân].Mang tiếng là chủ tớ sai khác, bên trong thật ra là anh em, họ hàng! Thương phongbại tục, chẳng nỡ nói nổi!* Lại có kẻ giả vờ ham thích học Phật, để dụ dỗ kẻ bóng sắc trong chốnKhông môn, dám ô uế đất Phật, bại hoại sự thanh tu. So với sự dâm ác tầm thường,tội lỗi này chắc chắn nặng gấp trăm lần!* Lại có hạng người cuồng si khác, săn lùng nam sắc. Bề ngoài đội danhnghĩa bạn bè, trong ngầm mưu tình chồng nghĩa vợ! Họ do thấy mọi người coithường, [tự nhủ] “ta cũng chẳng phải là kẻ chánh trực [cần gì bận tâm]”. Còn cónhững kẻ kém hèn hơn nữa, cợt nhả bọn kép hát trẻ trung, suồng sã cùng lũ đầytớ đẹp trai. Tâm bị dục vọng nhiễu loạn, trong ngoài chẳng phân biệt! Ta đã dẫnnước vào nhà, kẻ khác sẽ thừa dịp gió thổi mà phóng hỏa, khi ấy, sẽ có nhữngchuyện chẳng thể dự liệu được!* Kẻ khác thì la cà chốn thanh lâu, tự xưng là chuyện “phong lưu, tao nhã”.Chẳng biết thân gái làng chơi hạ tiện, [họ phô bày] trăm kiểu ôn nhu, không gìchẳng là lưỡi câu, mồi ngon vây hãm con người. Hễ bước vào đó, người tột bậcthông minh cũng bị mê hoặc, đến nỗi tâm chí rối loạn, bỏ mặc nghề nghiệp chánhÝ nói: Có những gia đình cha lẫn con đều cùng có máu trăng hoa, tằng tịu với cùng mộtđứa tớ gái mà không biết. Nguyên văn “ngã ký dẫn thủy nhập tường, bỉ tất thừa phong phóng hỏa”, ý nói: Ta lodâm loạn, ắt sẽ lơi lỏng gia quy, quản chế gia tộc lỏng lẻo, khác nào xoi tường vây quanh,cho nước tràn vào nhà. Kẻ khác sẽ thừa dịp thuận tiện đánh phá, như người thấy gió đúnghướng bèn phóng hỏa.yếu, phá sạch gia sản, dấn mình vào bọn lưu manh. Huống hồ gặp phải người nữmắc bệnh truyền nhiễm, hoặc bệnh hoa liễu, lây nhiễm cho mình, rụng lông mày,mất mũi, đau đớn khó thể chịu đựng! Há chẳng chỉ hổ thẹn với bạn thân, lại cònbị vợ con chán ghét. Dẫu được lương y chữa trị, giữ vẹn tánh mạng, nhưng chấtđộc đã thương tổn tận ruột, đa số là đến nỗi chẳng thể sanh con, đẻ cháu. Dẫu cósanh nở, nhưng do chất độc từ trước đã quá nhiều, [đứa con] thường sanh ghẻ nhọtlạ kỳ, hoặc bệnh đậu nguy cấp, đến nỗi chết non. Vì thế, dòng dõi tuyệt diệt, hốilàm sao kịp?* Ông Nhan Quang Trung nói:- Lòng dục của thiếu niên có chỗ nào chẳng thấu tới? Ví như kẻ ham hố ănuống, càng phóng túng, càng cuồng loạn. Tận lực khắc chế, giảm bớt, ắt thói thamăn sẽ giảm nhẹ. Lại có những kẻ mặc tình bày ra tà thuyết, hòng cổ vũ lòng dục.Họ bảo: “Chẳng phải là bậc nam tử thông minh, sẽ không thể hiếu sắc!” Chao ôi!Chim cút bươn bả tìm bạn tình, cáo uốn éo mong được yêu thương, những loài đó[làm như vậy], chẳng phải là do tánh tình thông huệ! Buông lung lòng dục củata, làm chuyện vô lễ, có khác gì cầm thú hay chăng? Đã thế, đứa thiếu niên, bậcanh tài, làm chuyện ô uế gái nhà lành, ắt gặp họa cõi âm sai người truy sát đángsợ! Do cậy tài mà phóng đãng, ắt phải sầu “cửa nhà hao tổn, bệnh tật nguy ngập”!Săn lùng nam sắc, ắt khiến cho kẻ khác tủi nhục, mà phẩm hạnh của chính mìnhcũng bại hoại đáng thẹn. Làm thế nào để dần dần chịu đựng, dần dần kiêng ngừa,hòng giảm bớt những nỗi đoạn trường, tích tập một vài âm đức? Những kẻ đềxướng tà thuyết mê hoặc người khác, ắt tội ngang ngửa với những kẻ dâm loạnấy!* Trước nay, chốn tình dục phóng túng, dẫn dắt dâm tà, không chi hơn nơithành thị. Tụ tập tán gẫu, không gì chẳng bàn đến chuyện gái gú. Vầy đoàn la càphố hoa ngõ liễu, [nếu có nữ nhân] vô ý liếc mắt, liền bảo họ đa tình. Giữa đườnggặp gỡ, liền khoe là kỳ ngộ! Coi trộm ngọc cắp hương là chuyện vui thú, xem“bại hoại luân thường, tổn thương phong hóa” như chuyện bình thường. Sách độngthành phong trào, chẳng hề mảy may kiêng dè! Chẳng biết “tâm vô nhị dụng”,mê man say hoa đắm liễu, ắt phế bỏ chuyện kiếm sống. Do vậy, kẻ kinh doanhvốn liếng dần dần tiêu tán; kẻ làm công cho người khác, khó giữ mãi kế sinh nhai!Đã thế, cái nhân ác ngày càng chất chứa, tội lỗi oan nghiệt ngày càng thêm sâudầy. [Hậu quả] rõ rệt là nhà cửa suy sụp, phá sạch tài sản, uổng công nhọc nhằnbươn chải nơi phố thị. [Hậu quả] ngấm ngầm là bớt lộc, giảm thọ, mất sạch vinhhoa sẵn có trong mạng. [Hệ lụy] lớn thì là cha mẹ không nhờ cậy được, gan đau,ruột nứt. Nhỏ thì thân bại, danh liệt, lưu lạc, đáng than thở thay! Thậm chí,[chuyện gian dâm] bại lộ, gặp phải kẻ hung tàn, cái thân bảy thước trong khoảnhkhắc làm quỷ dưới ngọn đao! Hiềm rằng tai họa do dâm dật đã rành rành; hễ nóiđộng đến, [bèn có kẻ chê bai] “nói chuyện viễn vông”, cam tâm dấn thân vàophường bại hoại!* Trước mặt lũ hậu sanh trẻ dại, người đời ưa nói chuyện dâm ô, coi đó làchuyện vui cười. Nào biết lũ chúng nó non trẻ, chẳng hiểu biết, không biết lẽ lợihại, nghe những chuyện ấy, dục niệm bừng bừng. Do vậy, phá hỏng tấm thân thiênchân chưa phát triển trọn vẹn, khô kiệt tủy chưa tròn đầy, đến nỗi yếu đuối thànhbệnh, thậm chí chết non, họa hoạn suốt đời. Đúng là do kẻ chung quanh cổ vũ mànên nỗi! Ôi! Chẳng thể dùng lời lẽ chánh đáng để uốn nắn, răn nhắc [bọn thiếuniên], thì đã chẳng phải là bạn tốt, lại còn hùa theo chỉ vẽ [bọn chúng theo hướngdâm tà], địa ngục Kéo Lưỡi chính vì bọn người ấy mà kiến lập.* Người xưa bảo:- Đọc dâm thư có năm điều hại.1) Trở ngại nghề nghiệp chánh đáng là điều hại thứ nhất.2) Hao tổn tinh thần là điều hại thứ hai.3) Loạn tâm chí là điều hại thứ ba.4) Hoặc bạn bè mượn xem, ắt hại bạn bè, [đó là điều hại thứ tư].5) Hoặc con cháu lén xem, sẽ hại con cháu, [đó là điều hại thứ năm].Nói chuyện dâm uế có ba tội:1) Phô bày điều xấu của kẻ khác.2) Tổn thương đức hạnh của chính mình.3) Khinh nhờn trời, đất, thần minh.Nếu có thể dùng thân [làm gương] hướng dẫn chúng sanh, hoặc gặp kẻ đọcnhững sách tệ hại kể chuyện tư tình nam nữ, hãy nên viện dẫn quả báo do trinhlương hay dâm tà, hòng khuyên bảo hết thảy. Hoặc gặp chỗ đông người, bèn thuậtlời chánh trực. Hoặc trong phòng kín, ra rả khuyên can. Chẳng sợ bị châm chọc,chẳng nề hà [kẻ khác chê cười] hủ bại. Mềm mỏng khuyên bảo, ắt trong trăm ngànngười, sẽ có kẻ được hưởng lợi ích.Gần đây, kẻ buôn bán tiểu thuyết dâm đãng ngoài phố rất nhiều. Phàm nhữnglời dâm uế khó thể chịu nổi, chẳng thể thốt nên lời, đều công khai viết thành sách,được coi là tác phẩm tao nhã! Không “tác phẩm” nào chẳng tả chuyện lén lút hẹnhò, toàn những chuyện ô danh, thất tiết! Sau đấy, [những kẻ phóng đãng trong các“tác phẩm” đó] đâm ra lại vinh hiển, đoàn viên. Tả những chuyện thối tha trongchốn buồng the thành chuyện chẳng có mảy may nào đáng trách! Kẻ khuê nữ vôtri, lầm tưởng [những thói bại hoại ấy] là chuyện [tao nhã] của hàng tài tử, giainhân. Vì thế, mất trinh, thất tiết, điếm nhục gia phong, vạn năm khó thể gột rửa!Đến nỗi khơi gợi những thói xấu nơi bọn trẻ nhỏ chưa dậy thì, khơi dậy lòng hâmmộ của bọn dân quê. Đủ mọi nỗi họa hại, chẳng thể nói trọn! Lại còn có nhữngtranh ảnh dâm tà, càng là phương tiện dẫn dắt lòng dâm. Những thứ ấy đều lànhững thứ gieo nọc độc vào lòng người nặng nhất! Người có quyền lực, có chứcvị kiểm soát ngôn luận, nếu có thể thật sự cấm chỉ nghiêm ngặt, hủy sạch mọi bảnin, sẽ giúp ích cho phong hóa chẳng cạn đâu nhé!* Ông Châu Thiên ở Lạc Phố nói:- Niềm vui thỏa chốn khuê phòng, vốn chẳng phải là tà dâm. Vui vầy cùngthê thiếp, tuy chẳng có hại, hoặc trở ngại gì, nhưng chớ nên thỏa thích quá độ!Chớ nên phóng túng lòng dục; buông thả dục tình, sẽ thành họa hoạn. Vui đến tộtcùng, ắt sẽ sanh buồn! Cổ nhân đã dạy như vậy. Con người tinh lực hữu hạn, dâmdục vô cùng. Đem tinh lực hữu hạn, dâng cho dâm dục vô cùng; chẳng trách tuổicòn non trẻ, thọ mạng đã đứt ngang! Người chưa già cả, thể lực đã suy sụp trước!Huống chi mang phận con người, trên phụng dưỡng cha mẹ, dưới nuôi nấng vợcon. Nói theo lẽ lớn, thì có công danh sự nghiệp, nhỏ hơn là phải gánh vác sảnnghiệp, chi dụng trong nhà, [những điều ấy có] mối quan hệ chẳng cạn! Thế màbỏ mặc đó, chẳng màng hỏi tới. Tham tiệc tùng, hoan lạc chốc lát, chẳng đoáihoài nỗi lo sầu, nguy hiểm mai sau! Thật sự là cái tâm gì vậy? Hơn nữa, người ítham muốn, ắt đông con trai; kẻ tham dâm thường chẳng có ai nối dõi! Bởi lẽ, tinhlực suy vi, bạc nhược, khó thể sanh con. Do vậy, đến nỗi con cái lơ thơ, hiếmmuộn! Thậm chí tuyệt tự, chẳng có kẻ nối dòng! Đấy là họa hại [của kẻ tham đắmdục sự], nói sao cho xiết!* Châu Tư Mẫn nói:- Con người sống trong vòng trời đất, [trở thành] bậc thánh hiền, hào kiệt,đúng là những chuyện nên làm, nhưng tinh thần cần phải trọn đủ mười phần thìmới hoàn thành sự nghiệp mười phân vẹn mười. Nếu chẳng biết tiết dục, giữ vữngtinh thần, dẫu có chí hướng, tâm lượng tột bậc, nhưng do tinh thần tối tăm, sức lựcmệt mỏi, chưa hề có kẻ nào chẳng bỏ cuộc giữa chừng.* Lửa dục thiêu đốt, tinh tủy dễ cạn. Vì thế, đến nỗi giảm mất thông minh,trí lực kém hẳn! [Vốn là] kẻ hữu dụng, chẳng đầy mấy năm, trở thành hạng phếnhân vô dụng! Lại còn dần dần tạo thành bệnh lao! Bởi lẽ, chẳng cần phải thườnggần gũi nữ sắc, chỉ ngay trong lúc ở một mình, hễ một niệm xoay chuyển [tơ tưởngdâm sự], đã thừa đủ để chôn vùi đời này! Vì thế, Tôn chân nhân nói: “Mạc giaodẫn động hư dương phát, tinh kiệt dung khô bách bệnh xâm” (Đừng nghĩ vẩn vơ,dương khí uổng. Tinh cạn, mặt khô, trăm bệnh sanh) là nói đến đạo lý này.* Sắc là cửa ải [khó vượt] bậc nhất của lũ thiếu niên. Chẳng phá được cái ảiấy, dẫu cho tài cao, tuyệt học, đều chẳng có cách nào dùng được! Bởi lẽ, muôn sựlấy thân làm gốc. Sở dĩ cái thân máu thịt có thể tồn tại lâu dài [trong cõi đời] làdo tinh, khí, huyết. Huyết là Âm, Khí là Dương. Âm Dương ngưng đọng thànhTinh. Tinh chứa trong tủy xương, trên thông đến Tủy Hải, dưới thấu đến VĩLư, là món quý báu nhất trong thân người. Vì thế, nước Thiên Nhất chẳng cạn,tai mắt lanh sáng, chân tay, thân thể khỏe mạnh. Như nước thấm nhuần vật, trămvật đều tăng trưởng. Lại như dầu duy trì ngọn đèn. Dầu chẳng cạn, ắt đèn chẳngtắt. Vì thế, bậc tiên Nho coi “tâm hỏa giáng xuống, thận thủy thăng lên, điều hòalẫn nhau thì mới có thể dưỡng sinh”. Bởi lẽ, [lửa nơi] tâm là quân hỏa (君火: lửađứng đầu trong các thứ hỏa nơi thân). Lửa có tánh nóng bốc lên, thường thừa dịphuyết khí chưa định mà dâm niệm hừng hực dấy lên. Hễ quân hỏa vừa động, ắtcan hỏa (lửa nơi gan) và thận hỏa đều động. Thận thủy bị nung nấu, tiết ra ngoài,cạn kiệt bên trong.Nam tử mười sáu tuổi đã có tinh khí, cổ nhân [quy định] ắt phải sau ba mươituổi mới cưới vợ. Đấy là nhằm giữ cho gân cốt cứng cỏi, giữ gìn nguyên khí. HơnTôn chân nhân ở đây không phải là Tôn Bất Nhị (tức Thanh Tịnh Tản Nhân, một trongbảy đại đệ tử của Vương Trùng Dương, sáng tổ Toàn Chân Giáo), mà là mỹ hiệu của TônTư Mạo (541-682). Tôn Tư Mạo là một đạo sĩ, đồng thời là một y sư kiêm dược sĩ trứ danh,sống vào đời Đường. Ông từng được tôn xưng là Dược Vương, thanh danh sánh ngang HoaĐà và Biển Thước. Ông nổi tiếng học rộng, thông minh từ bé, thông thạo kinh điển Đạo giavà kinh Phật. Ông từng làm ngự y cho các vua Đường Thái Tông, Châu Tuyên Tông, ChâuTĩnh Đế, Tùy Văn Đế. Bộ sách y học nổi tiếng nhất của ông là Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương.Sau khi mất, ông được lập miếu thờ tại quê nhà ở núi Dược Vương, huyện Diệu, tỉnh ThiểmTây. Tống Huy Tông sắc phong đạo hiệu Diệu Ứng Chân Nhân, nên người ta thường gọiông là Tôn Chân Nhân. Đạo giáo tôn xưng ông với thánh hiệu Dược Vương Quảng ViệnDiệu Tế Chân Quân. Tủy Hải (髓海) là tên gọi khác của não. Não được gọi là Tủy Hải vì thiên Linh Khu trongHoàng Đế Nội Kinh có câu: “Não vi tủy chi hải” (Não là biển của tủy). Vĩ Lư (尾閭) có nghĩa gốc là “nơi nước quy tụ lại”. Về sau, từ ngữ này được dùng để chỉhuyệt Vĩ Lư ở chót cùng của xương cụt (phần kết thúc của xương sống, giáp với xươngmông). Thiên Nhất vốn là một khái niệm trong Hà Đồ Lạc Thư. Trong đó có quan niệm nhữngsố chỉ trời, thuộc về Dương, tượng trưng bằng chấm trắng, lần lượt gọi là thiên nhất, thiêntam v.v… Sách Lạc Thư Tinh Nghĩa nói: “Một âm, một dương giao hội lẫn nhau, cửu trùsanh ra từ đó, cửu cung được phối ứng từ đó. Từ thiên nhất sanh ra nước, nên phươngBắc thuộc về thiên nhất, là vận mở đầu cho thượng nguyên”. Ở đây, do sánh ví tinh tủynằm dọc theo cột sống từ cuối não xuống đến tận xương cùng, giống như nước từ trên trờiđổ xuống, cho nên tinh tủy được gọi là “thiên nhất chi thủy”. Do chẳng phóng túng dâmđãng, tinh tủy đầy đủ; vì thế, nói ví von là “nước Thiên Nhất chẳng cạn”.nữa, huyết khí phần nào đã định, cũng chẳng đến nỗi như bọn thiếu niên tự haotổn vậy. Lũ trẻ gần đây, kết hôn quá sớm, gân cốt chưa vững vàng, nguyên thầnhao tán. Kẻ chưa lập gia đình mà trước hết đã trừ bỏ căn bản này! Đứa đã cưới vợrồi, càng [ra sức] đẵn chặt mầm mống. Chẳng đầy mấy năm, tinh huyết tiêu vong,èo uột, chẳng thể phấn chấn nổi! Tuy vẫn mang hình hài con người, đã hoàn toànghi tên trong sổ quỷ! Do vậy, con em bất tài, cũng là vì cha anh chẳng dạy! Nayvì họ lập ra ba nguyên tắc lớn, chính là:1) Siêng năng làm việc để cái tâm bận bịu.2) Nam nữ cách biệt, hòng ngăn ngừa họa hoạn.3) Giao du thận trọng để chấm dứt chuyện [bị bạn bè xấu xa] dụ dỗ, mêhoặc.Như thế thì trong ngoài đều cùng tu, đức nghiệp mỗi ngày mỗi tiến, tráchnhiệm của cha anh cũng trọn vẹn!* Muốn kiêng hạnh dâm ô, ắt phải bắt đầu bằng kiêng ngừa dâm niệm. Hễdâm niệm dấy lên, ắt dâm hạnh sẽ thuận theo! Như vậy, dùng điều gì để khốngchế? Chính là đừng thân cận bạn tà, đừng vào chốn tà vạy, đừng đọc sách dâm tà,đừng nghe lời tà vạy. Bởi lẽ, hễ thân cận bạn tà, ắt bạn tốt ngày một lơ là, tự nhiênsẽ tiêm nhiễm những lời dẫn dụ [làm bậy], dần dần trở thành kẻ hạ lưu, phóngtúng hoang đàng, không chuyện gì chẳng làm! Hễ vào chốn tà vạy, khó giữ chánhniệm, tự nhiên tâm háo hức, chẳng giữ vững được. Phóng túng khoảnh khắc, hốihận suốt đời. Nói nghĩ đến đây, chẳng đáng răn dè ư?Còn như sách tà dâm, lời lẽ tà vạy, bất quá là trò du hý của văn nhân vànhững lời lẽ cợt nhả của lũ người rảnh rỗi. Bọn họ muốn viết thành một câuchuyện, tự nhiên nói đến [kết cục] đoàn viên, đẹp đẽ, toàn là những lời lẽ bịa đặtdối trá, há nên tin là chân thật ư? Nếu nghĩ “đôi khi xem đọc cũng chẳng sao, hácó thể lay động ta ư?”, [những tà niệm] ắt sẽ ngấm ngầm tăng trưởng, âm thầm bịhại mà không hay biết. Nói chung, cách để giữ thân không chi bằng ngăn ngừatrước, chớ nên tự lơi lỏng chút nào, thà bị kẻ khác cười chê ta là kẻ chấp trướcngây ngốc, chớ nên tự cho mình là hạng viên thông! Nếu thường ngày chẳng [tựgiữ gìn bản thân] rất nghiêm, làm sao bảo đảm lúc gặp chuyện sẽ không thất thố?* Triệu Hồng Bảo nói:- Tiết chế sắc dục, nói dễ dàng, chưa chắc làm được! Một niệm vừa sơ sẩy,lỡ bị chìm đắm, sẽ khó thể quay lại. Mỗi niệm đều phải kiên nhẫn, ngay trong khicảnh đột ngột thay đổi, [mà vẫn có thể giữ vững ý niệm], chỉ có cách là trongthường nhật, hãy thường xem giáo huấn của những bậc tiên triết, đặt những câucách ngôn [của họ] quanh chỗ ta ngồi. Giữ tâm thanh tịnh, ít ham muốn. Đối vớilễ nghĩa, pháp luật, nhân quả, hãy tin tưởng chắc thật, chẳng ngờ vực. Ngẫu nhiêntà niệm dấy động, hãy lập tức thống thiết đoạn trừ. [Làm được] như thế, đối trướccảnh, sẽ có thể tự dũng mãnh tỉnh ngộ. Còn như trong lúc nam nữ giao tiếp, hãytận lực tránh xa những điều tỵ hiềm “buộc dép trong ruộng dưa, chỉnh mũ dướigốc mận”. Dẫu là kẻ hết sức thân thiết sâu đậm, nhất định là cần phải phân địnhtrong ngoài rõ ràng. Mỗi lời nói, mỗi tiếng cười, chớ nên cẩu thả. Vọng tâm sẽ tựnhiên chẳng bén mầm nữa! Đấy chính là phương pháp sửa đổi, gạn lọc tận nguồngốc vậy.* Phàm nhân dễ bị sa chân sảy bước nhất khi đối trước nhan sắc xinh tươi.Trong khoảnh khắc bỗng dưng khó thể kiềm chế [cái tâm ham muốn], hãy thửnhắm mắt, chẳng dòm, giữ cho tấm lòng chẳng loạn. Bất quá có thể giữ vững ýniệm trong giây phút đó, [sẽ vì thế] mà có thể đỗ đạt cao, có địa vị vinh hiển, vẻvang cha ông, để lại phước cho con cháu. So với những kẻ nửa đời vẫn đèn xanh,quyển vàng , và những kẻ tích lũy công đức theo kiểu khác, [phương pháp tíchđức bằng cách khắc chế lòng dục] sẽ là đỡ tốn sức mà công to. Sao lại khổ sở vìsự hoan lạc trong khoảnh khắc, vứt bỏ công danh suốt cả một đời, chuốc lấy sựđộc hại suốt kiếp? Nếu chẳng kiềm chế nghiêm ngặt, phóng túng tình ý, [rốt cuộc]kẻ phấn trắng mày xanh (mỹ nữ) chớp mắt đã thành không, nhưng ta do vậy màgiảm thọ, giảm lộc, mất mạng! Lại còn mạng đáng hưởng phú quý, [do dâm tàmà] đổi thành bần tiện; đáng nên có con, do bị trừng phạt, nên không có ngườinối dõi, vợ con mắc phải báo ứng dâm dật, con cháu bị báo ứng khốn cùng, đủmọi nỗi ác nghiệp, chẳng phải chỉ có một! Ôi! Có hối thì đã muộn màng!* Người hiện thời trong cuộc sống thường nhật đều chẳng biết cẩn trọng [đốivới ngôn ngữ, hành vi]. Hoặc là vợ chồng cợt nhả, giỡn hớt trước mặt con cái,hoặc nuôi tiểu thiếp bôi son trát phấn, hoặc bỏ mặc vợ rong chơi bên ngoài, hoặctôi tớ phạm lỗi gian dâm chẳng nghiêm cấm, đủ mọi lẽ không nghiêm túc, lấy gìđể giữ yên nhà cửa? Nếu bớt ham muốn, giữ tâm trong sạch, nói cười chẳng cẩuthả, trong ngoài phân định rõ ràng, phòng ngừa đúng pháp, trong chốn khuê môn,đối đãi cung kính với nhau như khách, sẽ chẳng khiến cho người khác yêu kínhư?* Diêu Đình Nhược nói:Tiên triết (先哲): Các bậc thánh nhân, hiền nhân thuở trước. Ý nói vẫn phải cặm cụi học hành, chẳng đỗ đạt gì hết.- Người đời nay chỉ riêng mình không dâm, sẽ chỉ thành tựu sự nghiệp củachính mình. Sao bằng một khuyên mười, mười khuyên trăm, trăm khuyên ngànvạn, lại còn truyền bá đến đời sau vô cùng, để cùng chứng thiện quả ư? Giốngnhư vãi hạt giống, một thưng hạt rơi xuống đất, thâu hoạch tính bằng thạch.Gieo vô cùng, sanh trưởng cũng sẽ vô cùng, nhưng cần phải siêng gieo, đừng bỏruộng hoang. Lại như thắp đèn truyền nhau, một ngọn đèn đã thắp, ngàn ngọn đènsẽ đều được thắp. Đèn vô lượng, quang minh cũng vô lượng, nhưng đèn ấy phảido ta truyền [tiếp tục thắp sáng], đừng vì ta mà diệt. Chỉ sợ kẻ chẳng thật tâmgắng sức khuyên lơn mà thôi! Nếu nói “khuyên người ta, người ta chẳng thuậntheo” [để rồi không làm], tức là giống như gieo hạt, nhưng hạt chẳng sanh, truyềnđăng mà đèn chẳng sáng, có lẽ ấy hay chăng?* Vương Đại Khế hỏi Liên Trì đại sư: “Đệ tử tự xem bài văn Giới Sát củathầy, bèn ăn chay trường. Chỉ có điều sắc tâm hừng hực, chẳng thể diệt trừ, xinthầy hãy phương tiện răn dạy, khiến cho con quán [tai họa của] dục lạc cũng thêthảm giống như sát sanh”. Sư đáp: “Sát là chuyện đau khổ. Vì thế, dễ diễn tả tìnhtrạng thê thảm. ‘Dục’ là chuyện vui, nên khó thể diễn tả nỗi thảm khốc. Nay tôinêu một thí dụ. Công khai bỏ thuốc độc trong thức ăn dở tệ, đó là nỗi thảm độccủa sát. Ngấm ngầm bỏ thuốc độc trong thức ăn ngon, đấy là sự thảm độc củadục. Người có trí suy nghĩ [sẽ hiểu rõ]”.* Phàm nhân hễ thấy sắc đẹp, bèn dấy tà tâm, các thứ ác tâm đều sanh. Áctâm sanh, lương tâm chết ngắc! Chỉ có điều khi tà niệm đột ngột phát khởi, chẳngthể khống chế, hãy nghĩ đến một chữ Chết, hoặc nghĩ thân mình đang gặp chuyệnhoạn nạn, khó khăn, [tà niệm] ắt sẽ nhạt bớt rồi ngưng dứt. Nếu không, hãy nghĩngười nữ ấy sau khi chết đi, thịt rữa, xương mục, hôi thối chẳng thể gần được. Sắctướng trước mắt không gì chẳng phải là huyễn cảnh, ắt sẽ giật mình, tỉnh ngộ.Nếu không, hãy nghĩ ta do yêu thương cô này, mà hủy hoại danh tiết của côta, tức là ta nhơ bẩn như phân đất. Giữ vẹn danh tiết cho cô ta, danh tiết ấy quýnhư châu ngọc, hãy nên thương xót, thành toàn cho cô ta. Do càng yêu thương,càng chẳng nỡ lòng ô uế cô ta. Như thế, ắt sẽ sanh lòng kính trọng nghiêm túc.Nếu không, hãy nghĩ: Ta do mong cầu hoan lạc chốc lát, mà hao tổn công danh,giảm mất phú quý, giảm bớt thọ mạng của chính mình, không kẻ nối dõi, thanhdanh bại hoại, đều do vì chuyện này. Như thế, ắt sẽ mạnh mẽ tỉnh ngộ!Nếu không, hãy nghĩ: Cái tâm hổ thẹn, ai nấy đều có. Phụ nữ thất tiết, chỉ vìmê muội nhất thời, tới khi bị cha mẹ, anh, em chán ghét, bị bố mẹ chồng và chồng Thạch (石, đúng ra phải đọc là Đạn khi chỉ đơn vị đo lường, nhưng ta vẫn quen đọc làThạch), là đơn vị đo lường thời cổ. Một thạch bằng hai hộc, một hộc bằng năm đấu, tứcmột thạch là 120 cân (khoảng 60kg).ghét bỏ, bị xóm giềng, thân tộc chê cười, sẽ thường hối hận không kịp, ngậm oánhờn, mất mạng! Hoặc do chung đụng bừa bãi mà đọa thai, mẹ lẫn con đều chết,oan hồn trong chốn tối tăm há chịu bỏ qua [kẻ đầu sỏ gây ra nỗi oan nghiệt] ư?Nghĩ như thế, ắt sẽ hoảng hốt, kinh sợ [nguội lạnh lòng dâm].Nếu vẫn chưa được, hãy nghĩ: Nữ nhân dan díu sau lưng chồng, tức là hạngphụ bạc, nhẫn tâm, quá mức tàn độc [đối với chồng], còn nói chi đối với ngườingoài ư? Hãy nên coi [kẻ nữ ấy] như sài lang, xem như rắn rết, coi như quỷ sứ câuhồn, coi như oán gia đời trước. Như thế, ắt sẽ kinh sợ, kiêng dè!Trông thấy con gái của người ta, hãy nghĩ: [Nếu dâm loạn cô ta], sẽ giốngnhư kẻ ác xâm phạm con gái của chính mình. Trông thấy vợ người ta, phải tưởngnhư sợ kẻ khác dâm ô vợ mình. Ai nấy lúc vừa mới động niệm, hãy tự răn nhắcsâu xa: “Ta dâm loạn vợ con người ta; nếu vợ con ta cũng bị kẻ khác dâm ô thìbiết làm sao?” Vừa đối diện [nữ nhân], bèn tưởng như vậy, cái tâm [tà dâm] ấy sẽtự nhiên diệt mất. Đấy chính là món thuốc dập tắt lửa [dục vọng] nhanh chóngnhất! Hơn nữa, xâm phạm con gái người ta, có bao giờ con gái của chính mìnhchẳng bị kẻ khác xâm phạm! Ô nhục vợ người ta, vợ mình có bao giờ chẳng bị kẻkhác vấy bẩn? Chẳng cần phải tìm bằng chứng từ thời cổ, hãy xem khắp nhữngchuyện báo ứng trong thời gần đây, [sẽ thấy] đạo trời đúng là chẳng sai mảy may!Thấy những kẻ dâm dật đã phải chịu báo ứng, ai nấy đều như thế, sẽ biết kẻdâm loạn mà chưa bị báo ứng, ai nấy rồi cũng sẽ như thế. Thơ cổ có câu: “Khuyếnquân mạc tá phong lưu trái, tá đắc khoái lai, hoàn đắc khoái. Gia trung tự hữuđại hoàn nhân, nhĩ yếu lại thời, tha bất lại” (Nợ phong lưu khuyên chàng chớmượn, mượn đã nhanh rồi, trả chóng hơn. Người nhà sẽ phải nai lưng chịu. Anhmuốn khoan đền, họ chẳng dung), lời ấy chí lý thay! Gọi tỉnh chẳng ít những kẻđang say mộng!* Ngô Trạch Vân nói:- Con người sau khi được thừa hưởng khí chất [từ cha mẹ], đã thành hình,điều quan trọng nhất, không gì bằng sanh mạng. Nhưng nếu chưa thể dưỡngsanh , làm sao biết bảo toàn sanh mạng cho được? Đã biết bảo toàn tánh mạng,sẽ có thể dưỡng sanh, đấy là nguyên lý chẳng thay đổi. Lòng người gần đây chẳngbằng thời cổ, phong tục mỗi ngày một tệ hơn. Trong những cái gây tàn hại nặngnề nhất đối với sanh mạng của con người, không gì to bằng sắc! Sắc ví như đaobén, chạm đến sẽ bị tổn thương. Sắc ví như chất độc từ chim Trấm, uống vào ắttiêu đời! Tuy nam nữ kết hôn, chẳng trái nghịch nhân luân, nếu chẳng biết đến Ở đây, “dưỡng sanh” được dùng theo nghĩa rộng, hàm ý: Làm thế nào để vun bồi thânthể cho nó tăng trưởng tốt đẹp.nghĩa lý tiết chế tình ái, nỗi sầu mất mạng vẫn ẩn trong đó, nhưng người đời cứthấy là chuyện ngọt ngào, khoái lạc, cứ buông lung, chẳng biết tiết chế, là vì lẽnào? Ấy là vì trước đó, đã quên mất cái tâm đạo đức, ý niệm tà dâm bèn do nhânduyên mà dấy. Đang độ tuổi thiếu niên khí huyết sôi nổi, đắm mến những thóiphóng đãng vô lại, thường tiêu mòn tinh thần hữu dụng trong tay đàn bà, con gái,chẳng hề tiếc nuối! Thậm chí coi chuyện khoét vách, trèo tường là chuyện hayho. Ngủ lang nơi tiệm ả đào, cặp kè kỹ nữ, tự phụ là hạng phong lưu. Thậm chí,đối trước vợ con nói bàn chuyện dâm dật, cợt nhả suồng sã trong chốn khuê phòng.Vì lẽ này, gia phong bại hoại, kỷ cương, luân thường vùi lấp trong sắc dục, đểtiếng xấu khắp trong ngoài, nhưng kẻ ấy vẫn ngỡ là vui, chẳng nghĩ là khổ! Chotới khi chìm đắm đã sâu, tinh khô, tủy cạn, kẻ có chí khí do đó mà đọa lạc, tai mắtbởi đó mà lòa điếc, hình hài do đó mà còm cõi, nhân cách bởi đó mà thấp hèn.Hết thảy các bệnh hư nhược, bại xụi lại thừa dịp đó mà sanh, đến nỗi một thân sựnghiệp vô cùng, hy vọng không chi to hơn, thảy đều tiêu tán, chẳng còn chi nữa!Rốt cuộc, mất mạng đang độ tuổi trung niên, ghi tên trong sổ quỷ. Hoặc là chếtchẳng yên thân, hại đến con cháu, thảy đều là do lỗi lầm chẳng biết tiết chế sắcdục! Đúng là đã coi sanh mạng như trò đùa vậy!* Con người đối với tiền tài, dẫu là mối lợi nhỏ nhặt vẫn so đo, tính toántrăm kế để tranh giành, đã cân nhắc thâu nhập để quyết định chi tiêu, vẫn sợ thiếuhụt. Có kẻ nào ăn xài phung phí, chẳng biết chừng mực, [sẽ bị mọi người] chỉtrích là đứa phá của. Ôi! Tiền bạc là thứ có được từ bên ngoài, vẫn trân trọngdường ấy. Còn như tinh dịch đáng quý, chẳng được đặc biệt coi trọng như tiền tài.Sự tàn hại của dâm dục chẳng hề nhỏ nhoi! Tiền của đã hết, ắt nghèo túng; tinhđã hết, ắt chết tươi! Thế mà cứ mặc lòng phóng túng dâm dục, chẳng biết tiếc nuốimảy may! Một mai tinh cạn, tủy khô, nước cạn, lửa hừng, thuốc thang vô hiệu!Hối hận thì đã muộn mất rồi! Ông Tô Đông Pha nói: “Chuyện gây tổn thươngsanh mạng, chẳng phải chỉ có một, nhưng kẻ hiếu sắc ắt phải chết. Thân conngười dùng Thần để chế ngự Khí, Khí hóa thành Tinh. Tinh thần sung mãn, trònđầy, thân thể cường tráng, đủ sức làm chuyện lớn lao. Nếu dâm dục vô độ, ắt tinhcạn, khí hao, Thần chẳng thể duy trì được, sẽ thành bệnh tật, chết sớm!” Hiểunguyên do này, há chẳng thận trọng ư?* Thân thể, da, tóc, nhận lãnh từ cha mẹ, chẳng dám hủy hoại, tổn thương;đó là khởi đầu của lòng hiếu vậy. Nói đến chuyện “hủy hoại, tổn thương”, há chỉ Nguyên văn “nhân tư, môn phong bại hoại, luân kỷ táng vong trung cấu, tân đài, di xúnội ngoại”. Trung Cấu (中冓) là cái buồng kín trong nhà, Tân Đài là cái đài do Vệ TuyênCông xây cho nàng Tuyên Khương ở. Tuyên Khương vốn là công chúa nước Tề, đã đínhhôn với thái tử Cấp. Vệ Tuyên Công thấy con dâu tương lai đẹp quá, bèn chiếm làm củariêng, xây Tân Đài cho ở. Như vậy, “trung cấu” và “tân đài” đều hàm nghĩa đam mê sắcdục.có nghĩa là gẫy tay, gẫy chân mà thôi? Giống như một cái cây quý mới mọc, tronglúc nó đâm chồi nẩy nở, ắt phải kiêng đẵn chặt, sáng bón, tối chăm. Sau đấy, mớihòng nó tỏa rợp bóng. Kẻ đương tuổi dậy thì, gân cốt vẫn chưa vững chắc, huyếtkhí chưa định, mà đã chôn vùi chân nguyên trước, đến nỗi hình thể khô khao, còmcõi, tinh hoa tiêu sạch, trăm thứ bệnh theo đó ồ ạt nẩy sanh. Đối trước cảnh ấy,cha mẹ kinh hoảng, bối rối, bó tay, chẳng biết làm sao! Ở đây, tạm chẳng bàn đếnchuyện âm chất thiếu khuyết, hiềm rằng tuổi thọ suy giảm là do tự mình gây tạooan nghiệt, khiến cho song thân ngầm ôm nỗi đau vô bờ. Cổ nhân mỗi bước đềuchẳng dám quên cha mẹ, vì thân này là do cha mẹ lưu lại, há nên điếm nhục sựthanh bạch ư? [Hễ điếm nhục thân thể, thanh danh], sẽ là bất hiếu không chi tobằng!* Kẻ thiếu niên khinh bạc, đến nhà thân hữu, tự tiện dòm ngó nữ quyến củangười ta, hoặc nghiêng tai nghe trộm. Trên đường đi, gặp người nữ xinh tươi, dừngchân ngó sững, lẵng nhẵng theo đuôi, gạn hỏi tên họ. Thậm chí, lấy chính nhữngngười mà chính mình đã được thấy nghe để mặc sức chòng ghẹo, bàn tán cùngđồng bọn. Thử hỏi cái tâm ấy là cái tâm gì vậy? Ông Cừ Bá Ngọc chẳng lén lútlàm chuyện xấu, Tư Mã Ôn Công suốt cả đời chẳng có chuyện gì không thể nóivới người khác. Vậy mà [những gã thiếu niên khinh bạc ấy] ngay trong lúc banngày, ban mặt, ở nơi mọi người dồn mắt trông vào, cứ ngạo nghễ bộc lộ thói xấuchẳng ngại ngần! Khinh bạc như thế, còn chẳng coi những vị đoan chánh ra gì,há chẳng khiến cho quỷ thần phẫn nộ ư? Nếu trong những kẻ quen biết, có hạngngười như vậy, hãy nên sớm tuyệt giao, chớ nên thân cận với chúng nó một ngàynào!* Tất Trung bảo:- Thế giới hiện thời ngày càng tối tăm, ô trược! Thanh niên nam nữ ngàycàng lắm kẻ bại hoại danh tiết, chôn vùi thân thể. Suy xét nguyên cớ, đều bắtnguồn từ dâm thư và tranh ảnh dâm đãng gieo rắc nọc độc. Trộm xét: Mấy thuởgần đây, những thứ dâm thư, dâm họa diễm tình mới ra lò chẳng thể đếm xiết!(Mỗi cuốn sách ra mắt, chẳng biết sẽ bán cho mấy trăm ngàn người! Những gãtác giả thường nói cho êm tai là “xé màn tăm tối”, chẳng biết đó là phương cáchhướng dẫn, ươm ủ dâm đãng! [Chánh phủ] đã nhiều lượt nghiêm cấm dâm thư, cónhững kẻ bề ngoài tuân lệnh, [nhưng vẫn] ngấm ngầm bán ra, hết sức đáng thanthở!) [Các thứ ấy] được xuất bản nhiều lượt, chẳng cùng tận, chỗ nào cũng thấy!Thiếu niên nam nữ, thấy mục lục các sách ấy được đăng tải, quảng cáo trong báochí, đúng là muôn màu, muôn vẻ, mô tả hết sức tường tận, nẩy ý tò mò, mua vềxem, chẳng tránh khỏi chuyền tay cho bạn bè cùng xem, đến nỗi mắt say, tâm mê,thần hồn điên đảo. Đứa nhát gan sẽ chẳng dám dễ dãi thử mùi, nhưng thân thể đãvô hình bị hao tổn. Đứa bạo phổi chẳng thể tự kiềm chế, nếu lỡ sa chân, [hệ lụy]nhỏ là thất nghiệp, thất học, hao tinh, tổn thần (ba thứ quý báu trong thân ngườichính là Tinh, Khí, Thần. Nếu căn bản ấy bị mất đi, bệnh tật sẽ nẩy sanh, làm saosống lâu cho được). [Hệ lụy] to lớn là tan nhà, mất mạng, tuyệt dòng, đứt giống.Cho đến lúc ấy, hối đã chẳng kịp!Phong khí dâm tà, tối tăm ở Thượng Hải vượt xa nơi khác. Thử xem: Nhữngnơi cất chứa những thứ dơ bẩn, ô uế, dẫn dắt con người sa hầm sụp hố, chỗ nàocũng có. Tai mắt bị tiêm nhiễm, kẻ thường ngày ý chí kiên định, tự trọng, vẫnchẳng tránh khỏi bị bạn xấu lôi kéo mà sa ngã! Do vậy, tôi nói: “Sách dâm, tranhdâm, đúng là lưỡi dao sắc bén giết người!” Chỉ nguyện các em, các cháu thanhniên, những thiếu nữ khuê các, hễ gặp những dâm thư ấy, hãy xé bỏ, hủy diệt,đừng đọc. Gặp những đứa bạn xấu, hãy nghỉ chơi, đừng gặp mặt. Vẫn mong hãyrăn nhắc lẫn nhau, đừng dấn thân vào nguy cơ sát nhân vô hình.Tôi nay đối trước giới xuất bản, giới sáng tác, dập đầu chín lạy, thưa: “Aichẳng có con em? Ai chẳng có vợ con? Nỡ lòng để họ lọt vào chốn tối tăm, vâyhãm trong tử vong, tuyệt dòng đứt dõi ư?” Tôi lại dập đầu chín lạy trước các vịhiệu trưởng, các vị gia trưởng, những vị kinh lý các nơi, thưa: “Mong các vị hãychú trọng mọi lúc đều nghiêm ngặt giám sát, nhiều lượt khuyên dụ, khiến cho cácem các cháu thanh niên thoát khỏi hắc ám, tránh khỏi tử vong”. Thế nhưng nguyêntắc [trừ diệt dâm thư] vẫn thuộc về tay giới xuất bản, giới sáng tác hãy thực hiệnđạo đức cao thượng trong nghề nghiệp. Nếu chấp thuận ý kiến thiển cận của tôi,hãy phá hủy các bản in [sách dâm, tranh dâm], thôi viết [truyện dâm tình]. Tôibiết con em nam nữ của họ, ắt sẽ là những đại vĩ nhân, tài đức trọn đủ trong nướccộng hòa.Nếu như bảo “trong dâm thư ngầm nói đến quả báo ác, người xem sẽ có thểtự cảnh giác”; thử hỏi có sách nào mà không ngầm nói đến quả báo? Vì lẽ gì chỉthấy kẻ đọc [dâm thư] trầm luân, chìm đắm? Tôi lại chắp tay, lạy lục những nhàvăn viết chuyện diễm tình, những nhà mỹ thuật vẽ tranh khiêu dâm: “Các vị tàinăng rạng rỡ, cầu gì chẳng được? Tội gì tự vấy bẩn mình, khiến cho danh tiếnglừng lẫy bị ảnh hưởng, dẫn dắt xã hội vào chỗ hắc ám, hãm nhân dân trong tửvong, đánh bạc với mối lợi nhỏ tí như đầu con ruồi?”Tuy lề thói hiện thời ít nói đến các thuyết âm chất, nhân quả, nhưng đối vớingũ kinh, tứ thư, các vị thông sáng xưa nay, ai nấy đều nêu tỏ, đề xướng. Há vìthói đời hiện thời chẳng tin, bèn bác bỏ, cho là không có ư? Trong các ác nghiệp,dâm ác nặng nề nhất. Khi còn sống, sẽ ngấm ngầm vướng lấy các thứ báo ứnggiảm phước, tổn thọ, diệt tử tuyệt tôn. Chết đi, linh hồn ắt vĩnh viễn hứng chịuđau khổ! Các đồng bào của tôi lẽ nào mắt trông thấy mà tâm chẳng kinh hoảngư? Kính xin những bậc trưởng giả từ thiện đất Thượng Hải, nếu chẳng coi nhữnglời thô lậu này là sai lầm, sẽ họp lại bàn bạc, trù tính thỏa đáng cách khuyên dạy.Không chỉ là tạo phước cho một phương, mà phong thái đức hạnh ấy sẽ khiến chomọi người khắp nơi đều noi theo, [như vậy thì] đồng bào trong thiên hạ đều đượchưởng ân trạch. Khôn ngăn thơm thảo, trăm lạy cầu khẩn!* Hoàng Hiếu Trực nói:- Sách Luận Ngữ chép: “Thiếu chi thời, huyết khí vị định, giới chi tại sắc.Thánh nhân chi ư sắc, vô thời nhi bất giới dã” (Tuổi thiếu niên, huyết khí chưađịnh, phải kiêng sắc dục. Đối với sắc, thánh nhân chẳng có lúc nào không răndạy). Lễ Ký chép: “Thứ nhân phi ngũ thập vô tử, bất thú thiếp, kỳ bất nhị sắc khảtri. Nam tử tam thập nhi thú. Kỳ bất tạp sắc khả tri. Chư hầu bất thú cảnh nội. Kỳbất đoạt nhân chi thê khả tri. Tiên vương dĩ phân chí nhật bế quan. Kỳ thanh tâmquả dục khả tri” (Thường dân nếu chẳng đến năm mươi tuổi mà chưa có con, sẽkhông cưới thiếp. Có thể biết là họ chẳng mê hai vợ. Đàn ông ba mươi tuổi bèncưới vợ, có thể biết [cổ nhân] chẳng tham sắc. Chư hầu chẳng lấy vợ trong lãnhthổ của chính mình, có thể biết là họ chẳng đoạt vợ của người khác. Đế vươngthuở trước bế quan vào các ngày Xuân Phân, Hạ Chí, Thu Phân, Đông Chí, có thểbiết tâm họ trong sạch, ít ham muốn). Thế mà Khổng Tử đối với những chuyệnnày, nhất loạt chẳng nhắc tới, đặc biệt nêu ra chuyện “tuổi thiếu niên huyết khíchưa định” để răn dè sắc dục. Đúng là Ngài đã coi trọng chuyện này, và cũng hếtsức sợ [thiếu niên sẽ phạm sai lầm trong] chuyện này. Bởi lẽ, kẻ đang tuổi mớilớn, giống như thảo mộc vừa bén chồi, trăm loài trùng còn đang ủ kén. Trong lúccỏ cây vừa mới nẩy lộc, liền vặt đứt mầm, chẳng có cây nào không khô héo. Trămloài trùng đang lúc ẩn trong kén, chợt xé toang ổ kén, không có con nào chẳngchết!Thánh nhân cảnh tỉnh thiếu niên, dạy chúng hãy tận lực khống chế cái tâmsắc dục, biết kiêng sợ, tự xót thương chính mình, nhằm gìn giữ, vun bồi tấm thânnon nớt. Tuổi thiếu niên mà có thể đối với cái ải sắc dục này, giữ vững vàng, cắtđứt lìa [mọi sự dụ dỗ, mê hoặc], mai sau [khi trưởng thành], nguyên thần chẳngthiếu hụt, hạo khí tràn ngập trời đất, như mặt trời rạng rỡ giữa ban ngày, có thểvận dụng tinh thần vào chuyện kinh bang tế thế, tạo nên sự nghiệp ngất trời. Nhânphẩm chân thật, học vấn chân thật, đều do chuyện này mà ra. Dẫu chẳng thànhhạng có bản lãnh to lớn, ắt cũng nhất định hưởng hết tuổi trời, chẳng đến nỗi chếtngang trái. Các thiếu niên hãy nên mạnh mẽ suy xét điều này!* Cha mẹ yêu con hết sức thiết tha! Từ bé, không ai là chẳng kềm cặp nghiêmngặt. Chỉ có điều là đối với đại sự sắc dục gây nên tổn thương thân thể, phần nhiềuchẳng dạy dỗ sát sao, rành rẽ. Xét đến nguyên nhân, đó là vì khi [con cái] chưakết hôn, cứ nghĩ con em chưa hiểu biết, chẳng thể bảo rõ. Tới khi con đã lập giađình, lại cho rằng con đã trưởng thành, ngại ngùng trước mặt con dâu, chẳng thểnói trọn lời! Chẳng biết con em tuổi trẻ, chưa có kinh nghiệm từng trải sâu sắc!Đối với chuyện “xưa nay, những kẻ hiếu sắc ắt phải chết”, do chưa chính mắttrông thấy, chẳng tin tưởng cho lắm. Chúng nó lại chẳng đọc kỹ lưỡng các sáchkhuyên xa lìa, kiêng kỵ sắc dục, lại còn nghe những lời lẽ hoang đường của lũ bạntồi tệ, thường coi chuyện ăn nằm là lạc cảnh. Do vậy, đến nỗi tổn thương thân thể,mạng vong! Do vì [lẽ này], kẻ không con nối dõi chẳng thể đếm xiết! Đúng làđáng thở dài, tuôn trào nước mắt!Kẻ làm cha mẹ, cần phải khi con em mười bốn tuổi, trước hết hãy ngấmngầm quan sát động tĩnh, hiểu rõ những điều chúng nó ưa chuộng. Nếu con trẻ đãhiểu biết, khi con em thay quần áo, hãy ngầm xem xét, coi xem có dấu vết di tinhhay không, để gấp rút viện dẫn lời cổ nhân huấn dụ, bảo ban rõ ràng, nói cặn kẽcho con biết lẽ “hiếu sắc, ắt phải chết [yểu]”. Dẫn chứng những kẻ do hiếu sắc đãchết, để con em tự biết kinh sợ, sẽ có thể gìn giữ, vun bồi tinh thần. Nếu con đãcó gia đình, càng cần phải chẳng ngại phiền toái, khéo léo chỉ bảo. Cha bảo bancon trai, mẹ khuyên lơn dâu. Hãy gấp dùng các sách dạy về xa lìa sắc dục, kiêngdâm, để giảng giải cho con dâu, khiến cho nó khuyên nhắc chồng trong chốn riêngtư. Muôn phần đừng vì lười nhác nhất thời, cảm thấy ngại ngần, để rồi đau hậnsuốt đời!* Tai họa do dâm to lớn nhất. Không chỉ riêng tà duyên (tà dâm), ngay nhưtrong chuyện vợ chồng chung đụng, hễ hơi quá lố, hoặc khi ngủ một mình mà tơtưởng chuyện sắc dục, đều đủ để mắc bệnh, mất mạng! Chẳng thể không răn dè!Sách vở Đạo gia có nói: “Nhân sanh dục niệm bất hưng, tắc tinh khí thư bố ngũtạng, vinh vệ bách mạch. Cập dục niệm nhất khởi, dục hỏa xí nhiên, hấp toát ngũtạng, tinh tủy lưu dật, tùng Mạng Môn tuyên tiết nhi xuất. Tức thượng vị tiết xuất,nhi dục tâm ký động, như dĩ liệt hỏa thiêu oa nội chi thủy, lập kiến tiêu kiệt. Vịkỷ, tắc thủy càn nhi oa tạc hỹ” (Trong đời người, nếu chẳng dấy lên dục niệm,tinh khí sẽ phân bố trọn khắp ngũ tạng, nuôi dưỡng, nhuần thấm trăm mạch thôngsuốt. Tới khi dục niệm vừa dấy lên, lửa dục bốc cháy hừng hực, khiến cho ngũtạng co rút, tinh tủy tràn ra, từ Mạng Môntuôn trào, chảy ra. Dẫu còn chưa tiếtra, nhưng do dục tâm đã dấy động, ví như dùng lửa mạnh để đun nước trong nồi,nước sẽ nhanh chóng khô cạn. Chẳng mấy chốc, nước cạn khô, nồi vỡ toang). Đấychính là căn cứ thật sự chứng tỏ dục niệm gây tổn thương thân thể. Tôi mongMạng Môn (命門) là một bộ phận quan trọng trong thân thể theo Trung Y. Nó được coinhư là căn bản duy trì mạng sống. Vị trí xác định của bộ phận này có nhiều thuyết, nhưngphổ biến nhất, Mạng Môn được coi là huyệt Mạng Môn thuộc mạch Đốc, có công năng chủtrì các dịch thủy thuộc Thận Tạng trong cơ thể. Huyệt Mạng Môn là cửa ngõ để các dịchthủy chuyển vào mạc Đốc. Nó nằm ngay trên phần thịt ở ngay xương sống nơi lưng, nằmdưới da, thuộc phần giữa của đốt sống thứ hai và thứ ba tính từ xương cùng.người đời có bệnh hãy tự chữa, chỉ cốt sao đoan chánh cái tâm, chú trọng lòngkính đó thôi!* Thiếu niên trong ngày tân hôn, dục niệm đang vượng. Nếu chẳng biếtchừng mực, sẽ thường là gieo họa căn chết chóc, rút ngắn tuổi thanh xuân củachính mình. Chuyện này thật đáng đau đớn thay! Xưa kia có một nho sĩ, sau khikết hôn đi thi, cảm thấy ngủ một mình khổ quá, [thi xong] chưa có kết quả đã vộiquay về. Một ngày đi hơn trăm dặm, canh hai về đến nhà. Cha hắn giận dữ, mắng:“Ắt là mày sanh sự ở trong thành, cho nên sợ tai họa mà trốn về nhà”, sai ngườitrói chặt, bỏ trong cái kho trống, lại quát tháo, [sai đầy tớ] kiếm gậy, bảo: “Ngàymai tao sẽ quật cho mày một trận tuốt xác”. Sáng hôm sau, cha thong thả thứcdậy, [bảo người hầu] cởi trói, cũng chẳng hỏi đến nữa. Đứa con lúc mới về, hứngthú thật nồng nàn, chợt bị cha quở mắng, làm nhục, trằn trọc cả đêm. Khi đượcthả ra, trọn chẳng hiểu ý cha. Khi đó, có một người bạn, cùng về với anh ta, hômsau chết ngắc. Là vì đã đi trăm dặm, lại còn cùng vợ ân ái, bèn thoát tinh [màchết], mới biết lý do cha trói mình lại.Cổ nhân bảo: “Sự thân giả, thuận ư vô hình, thính ư vô thanh” (Kẻ hiếuthuận biết phụng dưỡng cha mẹ, sẽ khéo quan sát thấu hiểu tâm tình trước khi chamẹ chưa biểu lộ, chưa nói ra). Do vậy biết: Cha mẹ yêu thương con, thật sự là cónhững lúc vượt ngoài biểu hiện, ngôn ngữ! Ôi! Trong vòng vợ chồng mà còn gặpnguy cơ như thế, huống hồ kẻ dan díu, cưỡng bức bên ngoài! Do bị kinh sợ chenlẫn, sẽ nguy hiểm gấp mười, gấp trăm lần. Kẻ làm con biết điều này, sẽ thấu hiểutấm lòng cha mẹ, ắt sẽ được sống lâu, mạnh khỏe!* Hoàng Thư Vân nói:- Tà dâm là phàm đối với vợ con của kẻ khác, ta do tà tâm xâm phạm thì làtà dâm. Dẫu đối với vợ của chính mình mà phạm nhằm chẳng phải lúc (khi vợ cókinh nguyệt, đang thai nghén, vừa mới sanh xong, đang cho con bú sữa, đang bịbệnh, trong ngày trai giới), chẳng phải chỗ (chẳng phải là nơi chốn để giao hợp),hoặc khi có mối quan hệ sanh tử đến thân mình hoặc vợ, hoặc nhằm ngày ngườilẫn thần đều cấm kỵ, hoặc đối với thân thể chẳng giao hợp theo đúng lẽ, hoặc[hành dâm] trong ngày đản sanh của thần thánh, đều là tà dâm. Đối với kỹ nữ, họdo ác nghiệp đời trước đến nỗi phải đọa vào đó, hãy nên sanh lòng thương xót.Lại ngược ngạo ưa chuộng kẻ hạ tiện ấy, mặc sức làm chuyện dâm uế. [Do vậy,sẽ] tổn đức, chuốc lấy báo ứng, đúng là đáng kinh sợ! Nếu xâm phạm trẻ nhỏ,gian dâm gái trinh, dâm loạn bà góa, ô nhục ni tăng; đấy chính là hành vi chẳngbằng cầm thú, thần lẫn người đều căm ghét, luật trời chẳng dung, càng là tội ác tolớn cùng cực! Hãy nên mạnh mẽ tỉnh ngộ, run sợ, thận trọng, kiêng lánh, tự giữthân, kiêng dè cẩn thận, đừng vi phạm.Lại có kẻ giao phối với cầm thú, rối loạn luân thường. Loại hành vi chẳngnỡ nhắc tới đó, rốt cuộc vẫn có trường hợp xảy ra! Than ôi! Lòng người bại hoạiđến mức cùng cực như thế đó! [Hạng người như vậy], há chỉ là đọa nhập cầm thú,lại còn gây hại cho con cháu. Sách Cảm Ứng Thiên coi chuyện “thấy vẻ đẹp củangười khác, dấy lòng riêng tư” là có tội. Dấy lòng còn chẳng được, huống là thựchiện ư? Hoặc tập thành thói quen ư?Ôi! Cổ nhân có vị được người khác dâng gái mà chẳng nhận, thế mà ta tínhtoán trăm kế để đoạt được. Cổ nhân có vị đêm thâu cự tuyệt kẻ dâm bôn, ta lạicưỡng bức, ô nhục [kẻ khác]. Cổ nhân có vị bỏ tiền ra mua thiếp, [khi biết ngườiấy đã là vợ kẻ khác] bèn trả lại cho chồng cô ta; thế mà ta tìm nhiều cách đoạtlấy! Cổ nhân có người bỏ tiền để giúp cho tớ gái lấy chồng, mà ta thì cậy thế giandâm. Cổ nhân có người chuộc kẻ làm nghề hạ tiện cho họ hoàn lương, mà ta cònthừa dịp họ gặp nguy khốn để hiếp đáp. Cổ nhân có người bỏ tiền cho vợ chồngkẻ khác được đoàn tụ, mà ta lại ly gián để cướp đoạt. Cổ nhân có người bỏ tiềngiúp người khác cưới hỏi, ta lại âm hiểm phá hoại. Ngấm ngầm thì [nạn nhân]nuốt nhục trong chốn khuê các. Lộ chuyện ra, cả nhà [người ấy] mang nhục. [Hậuquả] nhỏ thì cũng suốt đời thù hận, lớn thì sẽ trở thành nỗi lo về tánh mạng! Cònsống thì mắc oán với thần minh, cũng chẳng thể nhìn mặt chồng, cha mẹ, con cáicủa nạn nhân. Chết đi, sẽ trầm luân trong ác đạo, liên tiếp đọa trong địa ngục, ngạquỷ, súc sanh. Ta đã gây tội, đúng là không thể nào trốn được, mà niềm oán hậncủa kẻ ấy trọn không thể cởi gỡ, kéo dài đời đời kiếp kiếp, [tạo thành] nghiệpduyên lâu dài, con cháu phải hứng chịu báo ứng thảm khốc! Khoái lạc vỏn vẹntrong khoảnh khắc, tội chất chứa nhiều đời vô tận. Toàn là do lầm nhận hoa đốmtrong hư không, đắm chìm trong biển dục. Nợ phong lưu oan nghiệt, sao nỡ kếtthành? Cần phải hiểu thấu suốt, phải nín nhịn. Nếu chẳng nhịn được, tức là vẫnchưa hiểu biết thấu suốt vậy!Vì thế, thấy vợ con người ta, hãy tưởng như gia đình, quyến thuộc của chínhmình. Tưởng người cao tuổi như mẹ, coi người lớn tuổi như chị, thấy kẻ nhỏ tuổihơn như em, hoặc như con gái [của chính mình], ắt dâm tâm sẽ chẳng do đâu dấylên được! Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Bồ Tát ư tự thê thường tự tri túc” (Bồ Tát đốivới vợ của chính mình thường biết đủ). Đối với vợ của chính mình, còn chẳng nêndâm dục quá độ, há còn dám dâm loạn vợ con kẻ khác ư? Sách Tốc Báo Lụcchép: “Ta chẳng dâm vợ người, người khác chẳng dâm vợ ta”. Sách Minh Luậtghi: “Kẻ gian dâm con gái người ta, sẽ bị báo ứng tuyệt tự. Kẻ gian dâm vợ ngườikhác, sẽ bị quả báo con cháu dâm dật”. Đối với những vụ án tội lỗi xưa nay, hãyxem trong các sách như Giới Dâm Bảo Huấn, Cảm Ứng Thiên, Âm Chất Văn, đãghi chú khá nhiều câu chuyện, chẳng đáng sợ ư?Cần biết: Sắc tướng vốn là Không, vẻ kiều diễm như huyễn. Bình sơn phếtrực rỡ đựng phân, túi gấm giấu đao. Mỗi lúc rảnh rang trong phòng kín, đừng sanhvọng tưởng. Dẫu cho các tà duyên tụ hợp, chớ táng tận lương tâm. Chỉ dùng huệlực để chiếu soi, giữ gìn chánh niệm. Hãy nghĩ tới lương tri nơi tự tâm, rạng ngờiở nơi ta. Quỷ thần trong hư không, giám sát ta nghiêm ngặt. Trên đầu là Tam ĐàiBắc Đẩu, chiếu rực trước mặt ta. Táo Thần trong nhà, Tam Thi trong thân,chằm chằm theo dõi ta. Phước lạc nơi thiên đường, chớp mắt bèn có thể đạt tới.Nỗi khổ trong địa ngục, hễ sảy chân sẽ sa vào.Hãy gò cương trước vách núi, quay đầu trong biển khổ. Trong lúc muôn phầngian nan, mà tự giữ vững, giữ ý niệm “muôn phần chẳng thể phạm”. Đối với bàivăn dứt dục của Văn Xương Đế Quân, bài ca ngăn ngừa dâm của tổ sư ChungLy, hãy nên học thuộc, tận lực gìn giữ, đừng tạo nghiệp phải giấu diếm, đừnglàm chuyện bại hoại đạo đức, đừng coi đào hát là kẻ hèn hạ, mà càng phải thêmthương xót. Đừng nghĩ tôi tớ là lũ thấp hèn rồi chẳng giữ trọn [đức hạnh của chínhmình]. Đừng tiếp nhận [chung đụng] kẻ tự đến muốn ta làm chuyện dâm bôn vớihọ, để rồi phải sa thân vào lửa. Chớ coi thê thiếp như cơm ăn trong nhà, cứ phóngtúng tình dục đến nỗi sanh mạng bị thương tổn. Đừng quên danh phận kẻ lớnngười nhỏ, kẻo rối ren cương thường. Chớ ô uế tịnh hạnh của ni tăng, kẻo chọcgiận thần minh. Chớ lẫn lộn ranh giới giữa người và cầm thú, kẻo kết duyên đeolông. Đừng đối với gia đình của kẻ oán cừu mà tiết hận nơi vợ con của họ. Chớ Tam Đài (còn gọi là Tam Giai, Tam Xung, Tam Kỳ), tức là gọi tắt của Tam Đài Tinh Quân,hoặc Tam Đài Hoa Cái Tinh Quân. Nói cụ thể, sẽ bao gồm Thượng Đài Hư Tinh Khai ĐứcTinh Quân, Trung Đài Lục Thuần Tư Không Tinh Quân và Hạ Đài Khúc Sanh Tư Lộc TinhQuân. Theo sách Vân Cấp Thất Thiên của Đạo Gia, Tam Đài chính là sáu ngôi sao nằm phíaNam tòa sao Bắc Đẩu, chia thành ba cặp, giống như bậc tam cấp trước tòa Bắc Đẩu, nên cótên gọi như thế. Theo tín ngưỡng Đạo giáo và Tử Vi, chòm sao này chủ trì quan lộc, tứccông danh, tài sản sự nghiệp của mỗi người. Theo Động Thần Quyết của Đạo giáo, trong thân có ba loại trùng là thượng trùng BànhCứ, trung trùng Bành Chất, và hạ trùng Bành Kiêu. Khi con người chết đi, các loài trùngký sinh trong thân đều chết, riêng ba loài trùng này sẽ thoát ra, sẽ biến thành thi quỷ. Baloại trùng này được tăng trưởng bởi thói xấu của con người, như Bành Cứ tương ứng vớithói tham ăn tục uống, Bành Chất tương ứng với thói tham lam tài sản, Bành Kiêu tươngứng với tham dục, đắm sắc. Tổ sư Chung Ly chính là Chung Ly Quyền. Ông này vốn là một trong bát tiên, được tônlà Chánh Dương Tổ Sư, hoặc Vân Phòng Tiên Sinh. Ông từng ra mười đề thi cho Lữ ĐộngTân, độ Lữ Động Tân thành tiên. Do ông thường tự xưng là Thiên Hạ Đô Tản Hán ChungLy Quyền (天下都散漢鍾離權) với ý nghĩa tự trào phúng “Chung Ly Quyền là gã nhàn tảnnhất trong thiên hạ”, người đời sau vô ý, ngắt danh hiệu này thành hai, lại tưởng lầm chữHán (được dùng với ý nghĩa “hán tử”) là triều đại Hán, nên mới có thuyết nói ông sốngvào đời Hán. Thậm chí, có kẻ nghĩ ông có họ là Hán, nên thường gọi ông là Hán Chung Ly.Ông thường được miêu tả với hình ảnh một ông già râu dài, đầu hói, bụng phệ, mặc áophạch ngực, hở bụng, tay cầm quạt. Do Vương Trùng Dương (Vương Triết, sáng tổ ToànChân Giáo) học đạo từ Lữ Động Tân, nên đạo sĩ Toàn Chân Giáo đã tôn Chung Ly Quyềnthành đệ nhất tổ, Lữ Động Tân là đệ nhị tổ.xem những lời lẽ dâm đãng, những khúc nhạc hoặc văn chương đẫm mùi tình sắc,để khỏi khơi động tà tâm. Chớ bàn sắc đẹp, tiếng dâm, kẻo mê hoặc ý niệm ngườikhác. Trừ kẻ tự phạm [lỗi tà dâm] ra, phàm những kẻ dẫn dụ con em nhà đànghoàng trở thành dâm đãng, và kẻ thích bàn chuyện trai gái, biên soạn dâm thư, vẽvời tranh ảnh dâm dật, khơi gợi những tình cảm thấp hèn của con người, nhằmdạy người khác tà dâm. Người thấy kẻ nghe những thứ ấy, ắt sẽ muốn phạm vàotà dâm. Kẻ hoan hỷ tán thành, sẽ giống như tự phạm!Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Thập phương Như Lai, sắc mục hành dâm, đồngdanh dục hỏa. Bồ Tát kiến dục, như tỵ hỏa khanh. Nhược bất đoạn dâm, tu ThiềnĐịnh giả, như chưng sa thạch, dục kỳ thành phạn, kinh bách thiên kiếp, chỉ danhnhiệt sa” (Mười phương Như Lai nhìn vào các chuyện hành dâm, đều gọi là lửadục. Bồ Tát thấy dục, bèn như tránh né hầm lửa. Nếu kẻ tu Thiền Định mà chẳngđoạn dâm, sẽ như nấu cát đá mà mong nó biến thành cơm, trải trăm ngàn kiếp,chỉ gọi là “nung nóng cát”). Nếu luận định theo sự thật, ắt sẽ chẳng cần thật sựlàm chuyện [dâm tà] ấy, chỉ cần dấy lên một niệm, đã phạm tội đứng đầu trongmuôn điều ác! Ấy là vì chân tánh thường hằng được Thượng Đế ban cho, nguyênmạng được nhận lãnh từ cha mẹ. Thấy sắc đẹp, dấy lên dâm tâm, ắt khách (nhữngảnh hưởng bên ngoài) sẽ thay thế tánh thường hằng làm chủ. Chân tánh do ThượngĐế ban tặng, ắt sẽ bị nhuốm bẩn một lần, đấy chính là đại bất trung (lòng trungxuất phát từ cái tâm chẳng thiên lệch, chẳng lừa dối. Do dối mình, dối trời, chonên là bất trung). Những dụ hoặc bên ngoài lay động căn bản của nguyên mạng,[khiến cho] cái được lãnh nhận từ cha mẹ sẽ bị hao tổn một lần. Đấy chính là đạibất hiếu. Do vì tánh chẳng lìa mạng, mạng chẳng lìa tánh, mỗi lần dấy động dâmdục, sẽ là một lần hao tổn lý khí, tức là một lần mất đi tánh mạng, tức là một lầnphạm phải tội ác đứng đầu!Ôi! Kẻ hồng nhan như bạch khuê chưa nhuốm bẩn, mà sổ đen ghi tên gãthanh niên [phạm lỗi] đã tăng thêm! Do đó, bậc quân tử trước hết dùng chuyệnchánh tâm để gạn trong cái nguồn; kế đó, dùng “ít ham muốn” để dưỡng đức ấy.Há dám mặc tình buông lung dục vọng, trái trời, khinh miệt lý, để rồi đến nỗi haophước, giảm lộc, đoản thọ, để lại họa ương ư? Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tà dâmchi tội, diệc linh chúng sanh đọa tam ác đạo. Nhược sanh nhân trung, đắc nhịchủng quả báo. Nhất giả, thê bất trinh lương. Nhị giả, đắc bất tùy ý quyến Nguyên văn “cái hằng tánh giáng tự Duy Hoàng”, Duy Hoàng (維皇) là danh xưng xuấtphát từ sách Thượng Thư để gọi Thượng Đế, với ý nghĩa: Thượng Đế là vị vua duy nhấttối thượng của muôn vật. “Hằng tánh” (恒性) là tánh không thay đổi, tức chân tánh. Câucách ngôn này được viết theo quan điểm Đạo Giáo, nên coi chân tánh của mỗi cá nhân đềubắt nguồn từ Thượng Đế. Bạch Khuê: Một loại ngọc đẹp trong trắng, sạch bóng.thuộc” (Do tội tà dâm, cũng khiến cho chúng sanh đọa vào ba đường ác. Nếu sanhtrong loài người, sẽ bị hai thứ quả báo. Một là vợ chẳng trinh lương, hai là chẳngđược quyến thuộc như ý). [Châu Hy chú giải] sách Luận Ngữ đã viết: “Thế thượngvô như nhân dục hiểm, kỷ nhân năng bất ngộ bình sanh” (Trên cõi đời chẳng cógì nguy hiểm bằng dục vọng của con người, có mấy ai có thể chẳng vì chuyện đómà lầm lỡ cả một đời), đáng buồn thay!Mười hai điều tai hại của tà dâmMạo Khởi Tông chú giải hai câu “kiến tha mỹ sắc, khởi tâm tư chi” trongCảm Ứng Thiên như sau: “Thấy vẻ mỹ mạo của vợ con người khác, dấy lên cáitâm riêng tư gian tà”. Ý niệm ấy dấy lên, tuy chưa phải là thật sự [thực hiện], đãkhó trốn khỏi quỷ thần giáng họa, trừng phạt. Bởi lẽ, dâm đứng đầu muôn điềuác, kẻ ngu chẳng biết lợi hại, tạo tội nghiệt này. Nay thử giảng các lẽ họa hại,hòng cảnh tỉnh kẻ lạc đường.1) Hại thiên luân. Nam nữ ai nấy có người phối ngẫu. Đó là luân thườngtrời định. Dâm loạn cùng kẻ khác, chẳng đếm xỉa chuyện tình nghĩa vợ chồng củahọ bị sứt mẻ. Ta gây rối [thiên luân của họ], tức là chẳng khác gì cầm thú “đeolông, mang đuôi” lại đội mũ, khoác áo; há nên làm chuyện này ư?2) Xâm hại danh tiết của người khác. Chuyện to lớn trong đời phụ nữ, chỉđặt nặng tại chữ “tiết hạnh”. Loạn danh tiết của họ, khiến họ bị thất tiết, ngói vỡhá có thể lại lành ư?3) Tổn hại thanh danh. Dẫu ngươi kín đáo cách mấy, [cuối cùng cũng bịtiết lộ], chẳng có ai không biết, tiếng xấu lan xa, khiến cho mọi người đàm tiếu,khiến cho thân thích của người ấy cũng mất sạch thể diện.4) Tổn hại môn phong. Sỉ nhục cha mẹ ruột, cha mẹ chồng của người ấy,khiến cho chồng, và anh em trai, chị em gái, con, dâu, cháu của người ấy tủi nhục.Cả một nhà đeo nhục, đau đớn thấu tận tâm cốt. Đúng là giết hại cả ba đời nhàngười ta!5) Làm hại tánh mạng. Hoặc là phụ nữ [do bị dâm loạn], hứng chịu tiếngxấu, đến nỗi [do nghĩ quẩn mà ngã bệnh, hoặc tự vẫn] mất mạng, hoặc chồngngười ấy phẫn hận chết tốt, hoặc chồng giết vợ, hoặc cha giết con gái, hoặc vợgiết chồng, hoặc chồng giết chết gian phu, hoặc gian phu bị mọi người đánh chết,hoặc tỳ nữ bị người vợ ghen tuông hại chết.6) Làm hại phong tục. Trong xóm làng có kẻ táng tận liêm sỉ, mặt người dạthú ấy, kẻ ngu trông thấy gương đó, kết bè kéo đảng làm chuyện gian dâm, tổnthương, bại hoại phong tục bậc nhất. Do thói xấu ác ấy, nhất định sẽ gặp kiếpnạn.Sáu mối hại ấy tổn hại mọi người.7) Tổn hại tâm thuật. Hễ dâm niệm nẩy sanh, các thứ ác niệm đều sanh,như những tâm huyễn vọng, tâm tham luyến, tâm mưu mẹo, tâm ganh ghét, lôikéo, trói buộc chẳng ngừng. Ý ác nặng nề nhất.8) Hại âm chất. Chất (騭) có nghĩa là “nhất định”. Cõi trời ngấm ngầm cóđạo lý an định con người, chính là “tánh vốn lành”, là thai nguyên (胎元: nhânduyên khởi điểm của cái thai) để làm người. Nay rối loạn đạo luân thường, bạihoại đức, chôn vùi hạnh, tổn thương thiên lý, hủy diệt lương tâm, chặt bớt lý âmchất, sẽ phải đọa trong ác đạo như địa ngục, súc sanh9) Hại danh lợi. Sách Cảm Ứng Thiên nói: Tam Đài, Bắc Đẩu, Tam Thi,Táo Thần luôn theo sát ta để xét lỗi, há có lẽ nào đêm thâu vắng người, trời caochẳng biết ư! Xem khắp các quả báo, [ắt thấy] như Lý Đăng phạm lỗi, [tài lộc bị]tước mất Trạng Nguyên, Tể Tướng. Người lái buôn gỗ X… ở Nghi Hưng do phạmlỗi, bị cọp đen nhai nát đầu. Trong mạng lẽ ra được phú quý, [do phạm tà dâm],cũng bị tước sạch! Huống hồ kẻ phước đức nông cạn, sẽ chật vật khôn kham!10) Hại thọ mạng. Bị quỷ thần tước đoạt tuổi thọ con người, [trong cácnguyên nhân], dâm ác là nặng nhất. Huống hồ lửa dục thiêu đốt, tinh thần suykiệt, xương tủy khô cạn. Lại còn hoặc là [do trong lúc bị cưỡng bức], vì kinhhoàng mà chết, hoặc [kẻ dâm loàn] bị lao, bị xụi, chết vì bệnh hoa liễu. Kẻ hiếusắc ắt phải chết, đoản thọ, chết yểu!11) Hại tổ phụ. Huyết mạch do cha ông truyền lại, bị phung phí trong ấy.Đó là ngỗ nghịch, bất hiếu nhất, phước phận cả một đời còn bị tước sạch. Từ đấytrở đi, danh tiếng của gia đình bị hoại, chẳng còn có người cúng quải [tổ tông].Tổ tiên trong cõi âm sẽ thành quỷ đói, há chẳng ôm hận cực độ ư?12) Hại vợ con. Kinh Phật dạy: “Vô hữu tử tức, loạn nhân thê cố. Thê nữdâm loạn, loạn nhân thất nữ cố” (Chẳng có con cái là vì dâm loạn vợ người khác.Vợ con dâm loạn là do [chính mình] đã dâm loạn con gái chưa chồng của ngườita). [Ta dâm loạn], sẽ khiến vợ con phải trả nợ, lại còn đoạn tuyệt dòng dõi.Chuyện này không chỉ thấy từ các quả báo được chép trong sách vở, mà hãy thửxem xét những kẻ dâm đãng trong đời trước, bèn biết đời trước, đời này, bất cứđứa dâm đãng nào cũng đều là như vậy.Sáu nỗi hại ấy tổn hại chính mình. Mười hai nỗi họa hại trên đây đều do xéttheo cách ngôn, nhân quả mà rút ra, cũng như xét theo những chuyện tận mắt thấytrong hiện thời. Mong những ai có cùng chí hướng với tôi, hãy nhận biết rõ rànghọa hoạn từ trước, ngõ hầu đến lúc gặp chuyện, sẽ chẳng mê muội. Bậc hiền nhânthuở trước đã nói: “Phải nhẫn cái ải này, phải kiên nhẫn, phải thật sự nhẫn”. Lạinói: “Hãy thường nghĩ tới lúc bệnh, lúc chết, tà niệm bèn tiêu”. Lại nói: “Sángtối thắp một nén hương, tĩnh tọa nửa tiếng đồng hồ, khiến cho tâm vượn, ý ngựadần dần điều phục”. Hành theo ba lời dạy ấy, lại còn hằng ngày xem mười haiđiều họa hại này, luôn luôn suy ngẫm. Đấy chính là cách tốt lành để ngăn ngừa tàdâm.Lại như Đường Cao, La Luân, Tạ Thiên, Vương Hoa đỗ đạt, chỉ vì tận lựccự tuyệt kẻ nữ dâm bôn. Triệu Bỉnh Trung, Châu Toàn, Phùng Kinh quý hiển, chỉvì cha họ chẳng phạm tà dâm. Há họa phước chẳng có mối liên quan tột bậc tolớn chuyện “trong khoảnh khắc, [có thể giữ vững ý chí, chẳng phạm tà dâm]” haysao? Chữ “kẻ khác” bao gồm cả con sen, chị ở. Xưa kia, Văn Xương Đế Quân đãtrịnh trọng, giáng bút bài Âm Chất Văn, dạy: “Hương duy tư tỳ, tú tháp khế nô,câu ưng tất tru chi luật” (Kẻ trong chốn màn thơm, tư thông với tớ gái, trên giườngthêu, nhấm nháp người hầu, ắt sẽ đều bị luật trời trừng phạt). Ai nấy đều cùng mộtThể, đều chớ nên xâm phạm. Cần phải biết: Thiện nhân suốt đời chẳng lầm lạc vìsắc, xem người già như mẹ, xem người lớn hơn như chị, xem kẻ trẻ hơn như em,xem kẻ nhỏ tuổi như con gái [của chính mình]. Dẫu họ tự đến [quyến rũ] ta, luônluôn phải tận lực cự tuyệt, giữ vững mười pháp lìa tà:1) Một là tâm địa thanh tịnh.2) Hai là giữ quy củ.3) Ba là kính thiên thần.4) Bốn là dưỡng tinh thần.5) Năm là mắt chớ nhìn.6) Sáu là chớ nói chuyện xấu xa.7) Bảy là đốt dâm thư.8) Tám là giảm bớt chuyện phòng the.9) Chín là đừng dậy trễ.10) Mười là khuyên răn kẻ khác cùng kiêng giữ.Người xưa đã từng khắc in những tờ truyền đơn khuyên kiêng tránh tà dâm,trong ấy có nói: Mỗi người nhận một tờ, hãy khuyên bảo mười người. Mỗi khikhuyên được một, hãy ghi danh ký tên, dâng sớ tâu trước thần minh, cùng thềkiêng răn dâm. Cách ấy là tốt nhất, mẫu truyền đơn cũng dễ làm.Tứ giác quán(khi phép Quán này thành tựu, sẽ nhận biết sâu xa, ta và kẻ khác đều là thểchất thô lậu. Do vậy, đây chính là môn phương tiện để trừ tham niệm khi đối trướccảnh giới)Phàm phu do ý niệm dâm dục, đời đời thường chuyển dời. Đời trước khi làmthân nữ, thấy nam nhân bèn vui thích. Đời này được làm nam giới, lại yêu thânthể người nữ. Luôn cảm thấy thân ấy ô uế, ái sẽ do đâu mà dấy?1) Hãy sanh khởi sự giác quán thứ nhất khi ngủ dậy: Thầm nghĩ sáng sớmthức dậy, hai mắt lờ đờ, chưa được rửa ráy, súc miệng, khi ấy, miệng đầy ke bựa,lưỡi đóng bợn vàng, hết sức ô uế! Hãy nghĩ dáng vẻ kiều diễm tuyệt thế, dẫu làmiệng anh đào xinh xắn, trước khi thoa son, giồi phấn, dáng vẻ cũng chỉ như vậymà thôi!2) Hãy khởi sự giác quán thứ hai [bản thân ta] sau khi say sưa: Thầm nghĩ,khi uống rượu quá lố, nội tạng nôn nao. Chẳng mấy chốc, ói mửa ồng ộc, phunsạch những vật chưa tiêu trong bụng. Chó đói ngửi thấy, vẫy đuôi giật lùi. Hãynghĩ giai nhân nhấm nháp từng chén rượu, ngọc nữ nhỏ nhẹ dùng cơm, nhưng khichén, khay chất đống, những thứ trong bụng cũng chỉ như vậy mà thôi!3) Hãy nên khởi sự giác quán thứ ba lúc bệnh. Thầm nghĩ sau khi ngọa bệnh,mặt mũi xám xịt, thân hình còm cõi. [Bệnh tật] lại còn tạo thành ghẻ, bướu, nátrữa, mủ máu lẫn lộn, hôi thối chẳng thể tới gần. Hãy nên nghĩ bậc quốc sắc thiênhương, trẻ tuổi, tươi non, nhưng bị bệnh tật quẩn thân lâu ngày, hình dạng cũngsẽ như vậy mà thôi!4) Hãy khởi lên sự giác quán thứ tư khi trông thấy nhà vệ sinh. Thầm tưởngnhà xí công cộng bên đường, phân tiểu chất chứa. Những thứ trắng vàng xen lẫn,ruồi nhặng rập rờn khắp nơi. Hãy nghĩ tư thái thiên kiều bá mị, mặc cho kẻ ấy tắmgội bằng nước thơm, thân xông hương xạ, nhưng sau khi đồ ăn thức uống bị tiêuhóa, cũng biến thành như vậy đó thôi!Cửu tưởng quán(Khi phép Quán này thành tựu, mới biết sau khi đã chết, vô lượng thê thảm.Đây chính là môn phương tiện để đoạn tuyệt ái dục tận gốc)[Nếu] ai nấy nghĩ đến khi chết, lửa dục sẽ nhanh chóng nguội lạnh. Nếu kẻngu nghe nói đến chuyện này, sẽ chau mày, than thở xui xẻo! Rốt cuộc, sau khitrăm tuổi, đều cùng vào lò hỏa thiêu. Chín phép quán tưởng của hàng Bồ Tátchính là bến cầu to tát trong biển khổ.1) Thứ nhất, quán người mới chết. Lắng lòng quán người mới chết, nằm ngửa,ngay đuồn đuỗn, khí lạnh thấu xương, chẳng biết gì hết. Hãy nghĩ cái thân thamtài mê sắc của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.2) Thứ hai, quán xanh bầm. Lắng lòng quán tưởng thi hài còn chưa tẩm liệm.Từ một ngày cho tới bảy ngày, khí đen dâng tràn, chuyển thành tím ngắt, rất đángkinh sợ. Hãy nghĩ vẻ đẹp như hoa của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.3) Thứ ba, quán máu mủ. Lắng lòng quán người chết bắt đầu rạn nứt. Thịtrữa nát thành mủ, sắp tuôn trào ra, gan ruột tan nát. Hãy nghĩ cái thân tuấn tú,phong nhã của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.4) Thứ tư, quán [xác chết] chảy nước. Lắng lòng quán tưởng cái thây rữa nát.Để lâu ngày, nước vàng túa ra, thối không thể ngửi được! Hãy nghĩ da dẻ thơmsạch nơi thân ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.5) Thứ năm, quán trùng ăn xác. Lắng lòng quán tưởng cái xác mục nát lâungày, khắp thân sanh trùng, đục khoét khắp chỗ. Những nơi xương đốt, đều nhưtổ ong. Hãy nghĩ cái thân của ta, ví như loan phượng, trong tương lai, ắt cũng nhưthế.6) Thứ sáu, quán gân chằng xương. Lắng lòng quán tưởng thây nát, da thịtmòn sạch, chỉ còn gân chằng xương, như dây buộc củi cho khỏi tản lạc. Hãy nghĩcái thân trộm ngọc cắp hương của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.7) Thứ bảy, quán xương rời rã. Lắng lòng quán xác chết, gân đã nát rữa, cáclóng xương vung vãi, chẳng tụ lại một chỗ. Hãy nghĩ cái thân cao vời, sang quýcủa ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.8) Thứ tám, quán [thi hài] bị đốt rụi. Lắng lòng quán xác chết, bị lửa đốtcháy, co rúm trên mặt đất, chỗ sống, chỗ chín, mắt chẳng nỡ nhìn. Hãy nghĩ cáithân văn chương trùm lấp cõi đời của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.9) Thứ chín, quán xương khô. Lắng lòng quán tưởng mồ mả bị phá, xươngxẩu quăng bỏ vương vãi, giãi nắng, dầm mưa, chuyển thành màu trắng, hoặc mụcnhũn, vàng úa, người, thú giày xéo. Hãy nghĩ cái thân ta tuổi trẻ chóng qua, trongtương lai, ắt cũng như thế.Mười điều khuyên răn1) Há nên điếm nhục kẻ xử nữ chốn khuê các, [vì chuyện ấy] liên lụy danhtiết cả đời người ta. Họ hàng mất mặt, chẳng thể che đậy. Kết chắc mối oán thùchẳng thể tiêu tan. Dẫu khi lấy chồng, có thể giấu diếm, [nhưng chính cô gái ấy]ẩn giấu nỗi sỉ nhục khó yên. Oán thù đau đớn ghi tâm khắc cốt, chất chứa như núi,gánh chịu nỗi nhơ ngàn năm khôn rửa! [Đấy là điều răn về] gái trinh.2) Có ai chẳng mong sống hạnh phúc đến già, đáng thương thay kẻ phòngkhông bóng chiếc. Ao thơm, đôi uyên ương tan tác. Từ đấy trở đi, chẳng còn mongchắp cánh cùng bay. Người chết chẳng còn mong mỏi chi khác, chỉ mong [ngườiphối ngẫu] sẽ làm ta rạng danh. Nếu cậy thế, chèn ép quá mức cuồng dại, rốt cuộctạo thành oan gia nghiệp chướng. [Đấy là điều răn về] góa phụ.3) Nữ nhân ai nấy đều mong được yên bề gia thất, giữ trinh tiết đợi được đínhhôn, vu quy. [Tớ gái] chỉ vì bị nghèo túng và khốn khó cùng vây bủa [phải làmthân tôi mọi cho kẻ khác, chủ nhân hãy nên đối xử bằng] thân tình cốt nhục nhưnước, đừng ngỡ họ như cỏ trước thềm. Đừng tham thú vui giường chiếu [mà épuổng, cưỡng bức họ], khiến cho trăm năm khó giữ vẹn thanh danh vốn có của giatộc. [Làm chuyện oan trái như thế], chỉ sợ con cháu chẳng ra gì! [Đấy là điều rănvề] tỳ nữ.4) Tuy chị ở kém hèn, vẫn biết hổ thẹn chẳng khác mọi người. Do bị cưỡngép, không biết làm sao, phải ép mình chiều theo [ham muốn dâm tà của chủ]. Tộiác [cưỡng bức] ấy sâu nặng hơn bình thường! Bọn họ đã có người phối ngẫu rànhrành, ta hãy nên giữ nghiêm gia phong. Trước nay, đầy tớ trung nghĩa, lập cônghuân lạ thường, đều là do cảm động vì ân nghĩa của chủ nhân. [Đấy là điều rănvề] chị ở.5) Vú em đã chăm sóc con ta, ta sao nỡ chẳng vì con, lại gian dâm họ? Họđã suốt năm chẳng được hưởng tình chồng vợ êm đềm, chỉ vì gia cảnh nghèo túngkhó thể chịu đựng được, [đành phải rời nhà làm vú em]. Huống hồ, chồng họ cònở lại nhà, rất mong họ thủ tiết. [Khi bị cưỡng dâm], họ xấu hổ, tự hận mình, đaulòng đến mức nào? Khuyên ngươi hãy sớm thấy thấu suốt! [Đấy là điều răn về]vú em.6) Kẻ nghèo túng, khốn quẫn, cam lòng nhịn nhục, hoàn toàn mong ngườicó lòng nhân gìn giữ trọn vẹn cho họ. Kẻ cậy tiền tài, thừa dịp họ gặp cảnh ngặtnghèo, mặc tình gian dâm, tạo nên nỗi oan nghiệt suốt đời chẳng nông cạn!Nguyên nhân dẫn đến giàu nghèo bất định, tài sản tụ tán như khói. Ai có thể dùngtiền mua được con cháu hiền từ? Chỉ sợ đời sau khó tránh [cháu con bại hoại].[Đấy là điều răn về] những phụ nữ nghèo.7) Họ đã tu hành xuất thế, há nên tìm kiếm thú vui xác thịt? Bại hoại giớihạnh và thanh danh của họ, chẳng đoái hoài sự thanh tịnh nơi nhà Phật, mắt thầnminh thấy rõ ràng như chớp lòe. [Đối với những kẻ] thừa dịp sơ sót để dâm loạn,phép vua xử tội, sự trừng phạt trong chốn u minh chẳng nhẹ đâu nhé! Đúng làthân đọa vào trong bẫy rập! [Đấy là điều răn về] ni cô.8) Có hạng kỹ nữ chốn lầu xanh, dựa cửa, trăm vẻ tà mị quyến rũ. Cần biếtrằng: Bậc quân tử yêu thân, yêu gia đình, luôn dè dặt như đang cầm ngọc, luôn sợhãi. Bọn họ vốn là hoa rơi vô chủ, ta rốt cuộc là ngọc trắng bị tỳ vết. [Dan díu vớigái làng chơi], sẽ phá tán của cải, lầm lỡ chuyện sanh nhai, nhiễm phải nhữngbệnh độc địa, chịu họa to tát. [Đấy là điều răn về] kỹ nữ.9) Cưới thiếp chỉ vì mong có người nối dõi. Cần gì phải có cả bầy gái tơ?Phấn trắng, son hồng bôi đắp trên đầu lâu! Nói chung, một giấc mộng xuân.Thường thấy phú ông lắm kẻ sủng ái [hầu non], lạnh nhạt đối với vợ cả. Thườngxuyên cầu lạc, theo đuổi chuyện dâm tà, sẽ có ảnh hưởng đến tánh mạng rất nặng![Đấy là điều răn về] hầu thiếp.10) Nam nữ chung sống là điều chánh đáng, há nên điên đảo âm dương? Ôuế sự trong sạch của người khác, khiến cho kẻ khác ngấm ngầm sỉ nhục. Chínhmình chôn sạch thanh danh, lãng phí tiền tài, giảm thọ. Lại còn tự gây tổn hại chotánh mạng. Xin các vị hãy quay đầu nhìn lại những kẻ ấy, [sẽ thấy] quả báo vằngvặc chẳng sai! [Đấy là điều răn về] nam sắc.Giới chi tại sắc phú (bài phú khuyên răn kiêng giữ sắc dục)(dùng chữ trong tựa đề để gieo vần)Tình thiên lồng lộng, dục giới mịt mờ. Trí huệ đã mê, si ngốc khó chuộc,cũng đều nghĩ tới vợ vợ, chồng chồng. Nghiêm giữ nếp nhà chẳng rối, ngõ hầucháu cháu, con con. Giữ nghiêm ngặt khuê môn chẳng hư bại, lẽ đâu có kẻ khoétvách? Trọn chẳng có mối mai ong bướm rập rờn, sao đến nỗi có gã vượt tường,đền chẳng hết món nợ uyên ương? Muôn điều ác, dâm xếp hàng đầu, chốn DiêmPhủ ắt có thêm người! Trăm mối họa ương, đều giáng xuống thân, không chỉ chếtnon, bại xụi! Xóa tên sổ quế, sống thì buồn suông nơi ngõ hẻm bần cùng, chặthết nhánh cành; chết đi, mộ hoang lấy ai cúng bái? Người người nhớ kỹ TrungDung, quên khuấy một kinh tránh xa sắc dục trong chín kinh. Ai nấy đọc LuậnNgữ làu làu, không nhớ điều kiêng sắc từ thuở thiếu niên trong ba điều răn dạy.Huyết khí phần nhiều chưa định, kẻ trí, người ngu, ai giữ vẹn [giới sắc] chẳng dời,đó chính là hòa. Tinh có thể bồi bổ gân cốt, kẻ tham dâm quá đáng, thể lực khônbề chống đỡ! Cậy thế bức hiếp bà góa, phá hoại danh tiết khiến người chồng đãmất khóc thầm! Ôm ấp gái trinh, cô dâu mới ôm nhục nghi nan. Nghĩ mụ ở dễ Sổ quế (桂籍: quế tịch): Vào thời Tấn Vũ Đế, thượng thư bộ Lại là Thôi Hồng đã tiến cửKhích Sân làm tả thừa tướng. Tấn Vũ Đế hỏi Khích Sân nghĩ như thế nào, Khích Sân tâu:“Thần như bẻ cành quế trong cung trăng, như được một viên ngọc từ núi Côn Luân”. Dovậy, sau này có những thành ngữ “nhất chi đan quế” (một cành quế đỏ), “đan quế”, “phanquế” (vin cành quế), “Quảng Hàn chiết quế” (bẻ quế từ cung trăng) v.v… để chỉ sự thăngtiến trong quan trường. Dần dần, mở rộng thành “Quảng Hàn chiết quế” (bẻ quế từ cungtrăng) với ý nghĩa đỗ đạt. Từ đó, có mỹ từ “quế tịch” để chỉ danh sách những người thi cửđỗ đạt trong khoa cử khi trước. “Xóa tên sổ quế” có nghĩa là công danh bị giảm trừ hoặcmất sạch, chẳng đỗ đạt. Con cháu ít ỏi, hiếm hoi! Chín kinh (cửu kinh) ở đây chính là chín điều trọng yếu để thực hiện đạo Trung Dungcủa Nho gia: 1) Tu dưỡng tự thân. 2) Kính trọng người hiền. 3) Yêu thương che chở thântộc. 4) Kính trọng bậc đại thần. 5) Chăm sóc các quan, đồng sự. 6) Thương yêu dân chúng.7) Tận lực khuyến khích các nghề nghiệp phát triển. 8) Ưu đãi khách thương từ xa tới. 9)Đối xử hòa thuận hòng giữ yên chư hầu. Xa lánh sắc dục là một hạng mục trong “kinh thứnhất” (tu dưỡng tự thân). Nguyên văn “huyết khí đa duyên vị định, trí ngu na đắc bất di, hòa giả dã. Tài tiên khảnhị, cưỡng hồ tai, lực mạc năng chi”. Theo cách diễn giải của ông Minh Tịch trong bộ ThọKhang Bảo Giám Hiện Đại Toàn Dịch, đoạn này phải hiểu như thế này: Kẻ thiếu niên huyếtkhí chưa định, thân tâm đa dục, bị sắc ma dẫn dụ, dẫu kẻ trí hay người ngu đều khó thoátkhỏi ma chưởng, huyết và khí hòa hợp mới sinh ra tinh, đó gọi là “hòa giả dã”. Đã có Tinhthì mới có thể bồi dưỡng cái thân máu huyết, tráng kiện gân cốt cho nên nói là “tài khảtiên nhị”. “Tài” chính là nói đến Tinh. “Nhị” (餌) có nghĩa là gân cốt được tinh bồi đắp màtráng kiện. Thiếu niên đắm đuối dâm dục nên gọi là “cưỡng”. “Cưỡng hồ tai” tức là thiếuniên do thường hành dâm dục đến nỗi thân thể thân thể bị hao tổn, mà vẫn không biết từbỏ. Do Tinh bị thiếu hụt, nên thân thể suy yếu, sanh nhiều bệnh tật. Vì thế, “lực mạngnăng chi” (sức không chống đỡ được). Do bị hạn cuộc theo cách viết trong nguyên văn, những câu này hơi khó hiểu, chúng tôimạn phép vẽ rắn thêm chân như sau: Kẻ phóng đãng chòng ghẹo gái chưa chồng, hoặc làmgiở trò gian dâm, cha con cùng chung chạ! Thấy chị vú dễ bề xâm phạm, độc hạihá thể chữa lành? Tớ gái xinh đẹp thường bị vợ cả ghen tuông hành hạ. Cặp kènam sắc, thói xấu long dương43F44 càng khó biết. Đầu lâu đắp thịt, riêng mê đắm kỹnữ điên cuồng. Bồ Tát rủ mày, cũng giận kẻ ô nhục ni cô thanh tịnh.Kinh truyện chép: “Nam hữu thất, nữ hữu gia, vật tương, vật tương độcdã” (Trai có vợ, gái có chồng, chẳng nên khinh nhờn họ). Sách Lễ Ký nói: “Nộingoại loạn, cầm thú hạnh, tắc tất diệt chi, tắc hữu thiệt thượng sán hoa, hà đoanthố thái” (Trong ngoài dâm loạn, tức là làm chuyện cầm thú, quốc gia ấy sẽ bịtiêu diệt, lưỡi mọc ung nhọt lở loét, lông mày tạp loạn, lộ vẻ tà dâm). Dụ ngườiđọa lạc núi tà, phạt ngươi trầm luân biển khổ! Kẻ tự phụ văn nhân tài tử, nhiềuphen thốt lời gợi thú phong lưu, khiến người nữ lâm vào cảnh oán thán, bậc trượngphu thất chí, trở thành dung tục. Tả những chuyện hò hẹn dưới trăng, bàn chuyệntrong buồng the; một lời tổn thương sự hòa hợp trong trời đất, xằng bậy soạn dâmthư, muôn kiếp chịu tội trong chốn Nê Lê. Diễn xuất vở tuồng dâm uế, tiếng hát,nụ cười, có ai nghĩ ngợi? Vẽ vời tranh ảnh dâm đãng trong chốn kín đáo, phơi bàyvẻ lõa lồ, há [kẻ nào] có thể không bị vấy bẩn? Say sưa ca hát khúc nhạc diễmtình, hồn phiêu đãng, phách nay tan nát! Ngụy tạo toa thuốc tiên, bổ dương, tháiâm, chính là đường lối dẫn vào tam đồ, há chẳng gây thêm oan nghiệt gấp cả trămlần?Đã có lời giáo huấn vứt bỏ những khúc ca nước Trịnh, hãy nên nghe theolời ấy. Nghĩ những bài Tụng nước Lỗ, đều không chứa lời tà vạy. Những giáohuấn ấy hãy còn, sao không dứt niệm dâm, chuyển thành chuộng đức? Không suychuyện suồng sã, khiến cho cô dâu mới phải gánh bao nhiêu lời ong tiếng ve châm biếm,nghi ngờ. Long Dương: Long Dương tức là Long Dương Quân (không rõ tên thật là gì), là tướchiệu của một viên quan, do rất đẹp trai nên được Ngụy An Ly Vương (Cơ Ngữ) say đắm,hết sức sủng ái, phong cho một chức quan lớn để sớm tối kề cận, hoan lạc. Theo chươngNgụy Sách trong Chiến Quốc Sách, có lần cùng vua đi câu cá, Long Dương Quân khóc lóc,tỏ ý lo ngại trong tương lai sẽ có người dâng người đẹp hơn để hầu hạ vua, khiến vua sẽruồng rẫy ông ta. Ngụy An Ly Vương bèn hạ lệnh: “Kẻ nào dám dâng mỹ nữ, mỹ nam lênvua, sẽ bị tru di cửu tộc”. Sau này, chữ Long Dương thường được dùng để chỉ đồng tínhluyến ái nam. Truyện (傳) nói chung là những bản chú giải các tác phẩm kinh điển trong Nho gia. Câunày xuất phát từ sách Quả Tử, không rõ chữ Truyện ở đây chỉ tác phẩm chú thích nào. Ông Minh Tịnh giảng: “Nội ngoại loạn” nghĩa là trong gia tộc làm chuyện loạn luân, đólà nội loạn. Chung chạ bừa bãi với người ngoài, đó là ngoại loạn.Câu này trích từ sách Lễ Ký, thiên Nhân Thể, chúng tôi dịch câu này theo lời dẫn giảicủa trang từ điển trực tuyến Bách Độ.Khổng Tử đã từng phê bình những khúc dân ca nước Trịnh chứa toàn lời lẽ dâm đãng. Lỗ Tụng là những bài hát ca ngợi đức đẹp hoặc bậc hiền nhân trích từ các khúc hát củanước Lỗ.nghĩ hòng giữ đạo vô vi; hễ có vật, ắt sẵn pháp tắc. Nghĩ đến lúc sẩy tay nơi váchđá cheo leo, lửa dục khó hừng! Hãy gấp quay đầu nơi bờ kia, đừng đắm chìmtrong làn sóng dữ!Có thể sửa lỗi, phước vẫn có thể tự cầu, thiện càng có thể chuyển dời; chắcchắn có thể tiêu họa chẳng lường. Kẻ áo xanh dẫn đi, Hồng học sĩ tăng thêm tuổithọ. Giấy vàng gởi tới, Hạng tú tài chợt đỗ đạt cao. Thoát bởi đó, mà xoaychuyển cũng nhờ vào đó, báo ứng phân minh, chẳng thể trốn tránh, vẫn có thểthay đổi. Vãn hồi trong khoảnh khắc, tội chẳng giáng xuống kẻ sám hối. Mộngdự vào cõi thanh lương, chuyện phi lễ chớ nên theo đuổi. Bóng, mền mênh mangtrời đất, hãy chí thành thực hiện. Trong luân thường kỷ cương, chỉ chú trọnghiền đức, chẳng quan tâm sắc đẹp, vui thú vợ con. Cưới hỏi đúng lễ, ai nấy ngâmbài “đào non vu quy”. Đừng ham vẻ đẹp tươi non, mơn mởn bên ngoài, mànloan đẹp mộng, cúi đầu vẻ mặt mơ hồ, sáo phượng, lời ca mới mẻ, bóng quỷ kéolưỡi đáng gờm!Trong tâm răn dè như sắt, há vướng vào lưới pháp hay sao? Trên đầu chữSắc (色), vốn đã chứa đao (刀), sát cơ đã lộ. Sống ham niềm hoan lạc hữu hạn,chết chịu nỗi khổ vô cùng. Có thể nhẫn, kiên nhẫn, nhẫn nại rất mực, thần phảikính phục. Thấy chuyện dâm, ý dâm, lời dâm, đều ngừa trời giận. Phải cự tuyệtkẻ toan dâm bôn, ngâm câu gió mát, trăng thanh, càng phải nêu cao quyết liệtXin xem cụ thể những chuyện này trong phần phước thiện và họa dâm án.Theo ông Minh Tịch, đoạn này nên hiểu như sau: Đã phạm tà dâm, báo ứng sẽ xảy đến,chẳng thể trốn tránh nên nói là “chẳng thể trốn tránh”, nhưng nếu khi gặp báo ứng, sámhối, thề chẳng tái phạm thì vẫn có thể giảm nhẹ quả báo nên nói là “vẫn có thể thay đổi”.Người đã sám hối, nghiệp chướng tiêu trừ, xa lìa ác báo, ngủ nghỉ an ổn, chẳng gặp ácmộng.Câu này xuất phát từ thành ngữ “khâm ảnh vô tàm” (chẳng thẹn với bóng áo). Thànhngữ này lại xuất phát từ chương Thận Độc trong bộ Tân Luận: “Cố thân hằng cư thiện, tắcnội vô ưu lự. Ngoại ô úy cụ. Độc lập nhi bất quý ảnh, độc tẩm bất quý khâm” (Vì thế, thânluôn giữ điều thiện, ắt trong là chẳng có lo âu, ngoài chẳng sợ hãi. Đứng một mình chẳngthẹn với cái bóng của chính mình, ngủ một mình chẳng thẹn với mền).Chỉ quan tâm vợ có hiền thục, đức hạnh hay không, chẳng bận tâm vợ có nhan sắc haykhông.Đây là nói đến bào Đào Yêu trong thiên Quốc Phong của kinh Thi: “Đào chi yêu yêu,chước chước kỳ hoa, chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia” (Cây đào non mởn, chi chít nhữnghoa, nàng về nhà chồng, êm ấm thuận hòa). Cổ văn thường dùng chữ Đào Yêu để chỉ hạnhphúc gia đình đầm ấm.Ông Minh Tịch giảng: Đừng ham tưởng thiếu nữ xinh tươi đẹp đẽ, hoặc thiếu niên dungmạo sáng sủa, khôi ngô, đến nỗi do tham đắm sắc đẹp đến nỗi trong giấc ngủ vẫn mơmộng, trước tác hoặc diễn tấu những ca từ dâm đãng để rồi chết đi bị đọa vào địa ngụcBạt Thiệt.Ý nói đến chuyện ông Lục Công Dung cự tuyệt kẻ dâm bôn dùng thơ quyến rũ, chòngghẹo (xin xem câu chuyện này trong phần Phước Thiện).câu “khe sương, sông tuyết!” Đối với thú vui chồng vợ, cũng chớ nên ham hốquá nhiều! Chuyện giường chiếu của người khác, há nên dễ dãi rêu rao? Kẻ khinhbạc chốn thanh lâu, thôi đừng phóng túng ba năm! Ngọc trắng không tỳ vết, donhàn nhã, viết thành bài phú.Nhận định: Bài phú này do danh sĩ xứ Việt Trung là thương nhân Bái Đìnhsoạn. Có một đêm, ông ta mộng thấy Văn Xương Đế Quân bảo: “Ngươi có tàisoạn thơ phú, sao không soạn một bài phú giới sắc, hãy vì ta mà cảnh tỉnh ngườiđời”. Tỉnh giấc, ông ta liền viết ra bài này. Lúc đặt bút viết, dường như có thầngiúp sức, từng chữ đều khít khao đúng lý, từng câu đều khiến [người đọc] sángmắt, kinh tâm. Nguyện bậc văn nhân tài sĩ trong thiên hạ, hãy nên ngâm vịnhnhiều lượt, suy nghĩ kỹ càng! Luôn dè dặt như vào khe sâu đầy sương phủ, hoặc đi trên mặt sông đóng băng. Việt Trung chính là Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang hiện thời.SỰ CHỨNGPhước thiện án (những câu chuyện kể về được phước do làm lành)* Trong niên hiệu Tuyên Đức đời Minh, Văn Trung Công Tào Nãi thi đậukhoa thi Hương, được bổ làm Học Chánh. Do ông không nhậm chức, nên đượcđổi sang làm chức Điển Sứ huyện Thái Hòa. Do bắt cướp, bắt được một cô gái,giữ tại công quán. Cô ta rất đẹp, muốn theo ông. Ông nghiêm khắc quở: “Há cóthể xâm phạm gái chưa chồng ư?” Bèn lấy giấy viết bốn chữ “Tào Nãi bấtkhả” (Tào Nãi chẳng thể) đem đốt. Sáng ra, gọi mẹ cô ta đến lãnh về. Về sau, khiđang làm văn sách trong kỳ thi Đình, chợt có một tờ giấy bay tới rớt trước ghế, cóbốn chữ “Tào Nãi bất khả”, thế là ý văn dồi dào, đậu Trạng Nguyên.* Thầy thuốc họ Trần ở Dư Hàng, có người nghèo mắc bệnh nguy ngập đượcông Trần chữa lành, mà cũng chẳng đòi phải đền đáp. Về sau, do đụt mưa, ôngTrần vào nhà ấy. Mẹ chồng bảo vợ người ấy hãy ngủ với ông để báo ân. Ngườivợ vâng lời, đến khuya bèn mò đến chỗ ông, thưa: “Ngài đã cứu chồng thiếp. Đâylà ý mẹ chồng”. Ông Trần thấy cô ta trẻ tuổi, xinh đẹp, cũng động tâm, tận lựckiềm chế [dục niệm], tự nhủ: “Không thể được”. Cô ta nài ép, ông Trần liên tiếpbảo: “Không được!”, ngồi đợi trời sáng. Cuối cùng, gần như chẳng thể kềm mìnhđược, lại hô to hai chữ: “Hai chữ ‘không thể’ quá khó!” Trời vừa rạng sáng bènbỏ đi. Ông Trần có đứa con đi thi. Quan giám khảo loại bỏ bài văn của nó, chợtnghe có tiếng hô: “Không thể”. Khêu đèn đọc lại, lại gạt bỏ. Lại nghe có tiếng hôliên tiếp: “Không thể”. Cuối cùng quyết ý loại bỏ, chợt nghe có tiếng hô to “haichữ ‘không thể’ khó quá” liên tục không dứt. Do vậy bèn cho đậu. Sau khi yếtbảng [công bố kết quả], [quan chủ khảo] bèn gọi nó đến hỏi nguyên do. Đứa conấy cũng chẳng hiểu. Trở về, kể với cha, cha bảo: “Đấy là chuyện lúc ta còn trẻ,không ngờ trời báo đáp ta như thế”.* Phùng Thương tuổi đã trung niên chẳng có con. Vợ thường khuyên chồngcưới thiếp để sanh con trai. Về sau, trên đường lên kinh đô, ông mua một ngườithiếp. Đã ký xong bằng khoán, giao tiền, hỏi tên tuổi cô ta; cô ta nức nở, khôngđáp được. Cố gạn hỏi, cô đáp: “Do cha thiếp nhận chuyển giao hàng hóa cho quanphủ, [bị thất thoát] mà mắc nợ, phải đem thiếp bán đi để lấy tiền trả nợ”. ÔngPhùng thương xót, lập tức trả cô ta về với cha, chẳng đòi tiền lại. Khi trở về, vợhỏi: “Người thiếp đâu rồi?” Ông kể cặn kẽ nguyên do. Vợ bảo: “Ông dụng tâm Tuyên Đức là niên hiệu của Minh Tuyên Tông (Châu Chiêm Cơ) từ năm 1425 đến năm1435. Học Chánh (學正) là chức quan quản nhiệm quy củ, khảo thí trong trường Quốc Tử Giám. Điển sứ (典史) là chức quan thuộc cấp huyện, châu, thấp hơn Tri Huyện một bậc, có tráchnhiệm bắt phạm nhân, điều tra các vụ án, canh tù, lưu giữ hồ sơ vụ án.như thế, lo gì không con”. Mấy tháng sau, vợ hoài thai. Buổi tối hôm vợ ông sắpsanh, người trong làng đều thấy tiếng trống, tiếng kèn rộn rã, tuyên bố: “ĐưaTrạng Nguyên tới nhà họ Phùng”. Sanh con trong ngày hôm ấy, tức là PhùngKinh. Về sau, [Phùng Kinh] đỗ Tam Nguyên, làm quan tới chức Thái Tử ThiếuSư, rồi làm Tể Tướng, quan chức rất vinh hiển.* Đời Minh, ông Tôn Kế Cao ở Vô Tích, dạy học tại một nhà nọ. Bà chủ saicô hầu gái biếu thầy một chén trà, trong chén có bỏ một chiếc nhẫn vàng. ÔngTôn giả vờ không biết, bảo cô hầu gái dọn đi. Đêm đến, cô hầu đến gõ cửa, bảo:“Bà chủ đến đấy!” Ông vội lấy một tấm ván lớn, chặn cửa không cho vào. Ngàyhôm sau xin về, người khác hỏi nguyên do, ông đáp: “Học trò không thể dạyđược!” Trọn chẳng lộ chuyện ấy. Về sau, ông Tôn đỗ Trạng Nguyên, con cháuquý hiển.* Cha ông Châu Toàn ở Ôn Châu, đông con, nhà nghèo. Hàng xóm giàu có,không con, sai người thiếp xin giống. Đêm đến, mời cha ông Châu Toàn uốngrượu, người chồng giả vờ say lui ra, người thiếp ra bồi tiếp, nói rõ nguyên nhân.Cha ông Toàn kinh ngạc, vùng đứng dậy, nhưng cửa đã đóng, bèn vung tay viếtlên không trung rằng: “Muốn truyền thuật gieo giống, lại sợ thần trên trời”, xoaymặt vào vách, không ngó ngàng tới [người thiếp ấy]. Năm Ất Mão niên hiệuChánh Thống , ông Châu Toàn thi Hương trúng tuyển. Thái Thú nằm mộngthấy đón tiếp vị Tân Trạng Nguyên, tức là ông Châu Toàn, trên cờ hiệu đề chữlớn “muốn truyền thuật gieo giống, lại sợ thần trên trời”.Quan Thái Thú chẳngđoán được nguyên do. Quả nhiên, ông Toàn đỗ Trạng Nguyên vào năm Bính Thìn.Thái Thú chúc mừng, nhân đấy, kể lại chuyện đã thấy trong mộng. Cha ông Toànthưa: “Đấy là câu nói do lão phu đã viết lên không trung vào hai mươi năm trước”,còn tên họ của người trong chuyện trọn chẳng nói ra. Thái Tử Thiếu Sư chính là thầy dạy học cho Thái Tử. Thái Tử thường có ba vị quan kèmcặp, gọi là Thái Tử Thái Sư, Thái Tử Thái Phó và Thái Tử Thái Bảo. Lại đặt ra ba chức quanphụ tá gọi là Đông Cung Tam Thiếu, tức Thái Tử Thiếu Sư, Thái Tử Thiếu Phó và Thái TửThiếu Bảo. Chánh Thống là niên hiệu từ năm 1436 đến năm 1449 của Minh Anh Tông (Châu KỳTrấn). Ở đây, có lẽ năm Âm Lịch đã bị chép lầm, vì không có năm nào là năm Ất Mão (乙卯) trong niên hiệu Chánh Thống. Có lẽ là năm Đinh Mão (丁卯, 1447), tức năm Chánh Thốngthứ mười hai. Thái Thủ (太守, ta thường đọc thành Thái Thú), còn gọi là Quận Thủ là người đứng đầumột quận. Chức vụ này đã có từ thời Chiến Quốc, vì các nước chư hầu đều chia thành nhiềuquận, viên quan đứng đầu một quận sẽ gọi là Quận Thủ. Đến khi nhà Tần xóa bỏ chế độchư hầu, chia toàn thể Trung Hoa thành ba mươi sáu quận thì Quận Thủ có oai quyền rấtlớn. Mãi đến đời Tây Hán mới đổi Quận Thủ thành Thái Thủ. Sau khi nhà Đông Hán thiếtlập chức châu mục thì Thái Thủ mới thấp hơn Châu Mục hoặc Thứ Sử một cấp. Từ đời Tùytrở đi, chức quan Thái Thủ bị phế trừ. Từ đời Tống trở đi, Tri Phủ hoặc Tri Châu thườngđược gọi thông tục là Thái Thủ.* Đời Minh, ông Lục Công Dung ở Thái Thương, dáng dấp rất đẹp đẽ. Vàonăm Thiên Thuận thứ ba (1459), đi thi ở Nam Kinh. Trong quán trọ, có nữ nhânnửa đêm đến chỗ ông ngủ, toan tằng tịu. Thoạt đầu, ông viện cớ mắc bệnh, hẹnđêm sau. Cô ta lui ra. Ông bèn làm thơ rằng: “Phong thanh nguyệt bạch dạ songhư, hữu nữ lai khuy tiếu độc thư, dục bả cầm tâm thông nhất ngữ. Thập niên tiềndĩ bạc Tương Như” (Song thưa gió mát trăng thanh, cô gái ngấp nghé trêu anhhọc trò, mượn đàn toan những hẹn hò, mười năm trước đã phụ phàng Tương Như).Đợi đến sáng, ông mượn cớ rời khỏi. Mùa Thu năm ấy đi thi. Trước đó, cha ôngta nằm mộng thấy quan Quận Thủ tặng cờ, tấm, [kèm thêm một đội] trống, kèn.Trên tấm biển ấy, đề bốn chữ “nguyệt bạch phong thanh”. Người cha nghĩ là điềmbáo con thi đậu, viết thư gởi cho ông. Ông càng thêm dè dặt. Về sau, đỗ Tiến Sĩ,làm quan tới chức Tham Chánh.* Ở Tỳ Lăng, có một ông họ là Tiền, làm việc thiện, nhưng không có connối dõi. Trong làng có cụ Dụ bị kẻ có thế lực xiết nợ, bị gông xiềng giam cầm, vợcon đói rét, xin vay tiền ông. Ông trao tiền đúng số, chẳng giữ bằng khoán mượnnợ. Chuyện được giải quyết, cụ Dụ dẫn vợ con đến cảm tạ. Bà vợ ông Tiền thấycon gái của họ xinh đẹp, muốn mua về làm thiếp. Vợ chồng ông Dụ hoan hỷ. ÔngTiền bảo: “Thừa dịp người ta gặp khó khăn tức là bất nhân. Ý ta vốn làm lành, kếtcục trở thành chuyện để thỏa dục, tức là bất nghĩa. Ta thà không có con, quyếtchẳng dám phạm!” Vợ chồng ông Dụ khóc lóc bái tạ, lui về. Tối hôm ấy, vợ ôngTiền nằm mộng thấy có vị thần bảo: “Chồng bà âm đức rất trọng, sẽ ban cho bàđứa con quý”. Năm sau, quả nhiên sanh một trai, đặt tên là Thiên Tứ. Vào nămmười tám tuổi, [Thiên Tứ] liên tiếp đỗ đạt, làm quan đến chức Ngự Sử.* Trầm Đồng ở Quy An, có tên tự là Quán Di, nhà nghèo. Người anh tronghọ là Tốn Châu giới thiệu ông đến nhà sui gia dạy trẻ vỡ lòng. [Nhà ấy] mẹ góa,con thơ. Một đêm, bà góa đến dụ dỗ ông làm chuyện chim chuột, Trầm Đồngnghiêm khắc cự tuyệt. Ngày hôm sau liền từ tạ trở về. Bà góa sợ lộ chuyện, sắmsửa lễ vật van nài [Trầm Đồng trở lại dạy học]. Lại thúc giục Tốn Châu mời giùmmấy lượt, ông đều chẳng nhận lời. [Tốn Châu] vặn hỏi nhiều lần, ông Đồng trọnchẳng hé môi, chỉ nói “bất tiện” mà thôi! Năm sau, [Trầm Đồng] đỗ đạt, làm quantới chức Tuần Phủ.Thiên Thuận là niên hiệu của Minh Anh Tông (Châu Kỳ Trấn) từ năm 1457 đến năm 1464sau khi giành lại ngôi vua từ tay em trai là Minh Cảnh Đế (Châu Kỳ Ngọc) Tham Chánh (參政) là một chức quan khá cao cấp trong nền hành pháp thuở trước. Cùngvới Đồng Bình Chương Sự (同評章事, Tể Tướng) và Xu Mật Sứ (樞密使) gọi chung là ChấpChánh. Các vị như Phạm Trọng Yêm, Vương An Thạch… đã đều từng đảm nhiệm chức vụnày.* Vương Chí Nhân là thương gia ở tỉnh An Huy, đã ba mươi tuổi không cócon. Có thầy bói nói: “Vào tháng Mười này, ông sẽ gặp đại nạn”. Ông Vương vốnhết sức tin tưởng tài bói toán của người ấy; do vậy, vội vàng sang Tô Châu kiểmđiểm sổ sách để [mau chóng] quay về quê nhà. Buổi chiều, ngẫu nhiên tản bộ,thấy một phụ nữ gieo mình xuống nước. Ông Vương vội lấy mười lạng bạc, gọithuyền chài cứu lên. Hỏi nguồn cơn, cô ta đáp: “Chồng tôi làm công sống quangày, tôi nuôi lợn bán lấy lời. Hôm qua đem bán, không ngờ bị trả toàn là bạc giả,sợ chồng trở về trách mắng, không muốn sống nữa, cho nên toan tìm cái chết”.Ông Vương thương xót, bù tiền đầy đủ. Cô ta trở về kể với chồng, chồng khôngtin, bèn cùng với vợ tới chỗ ông Vương hỏi han. Ông Vương đã ngủ. Bà vợ gõcửa, gọi to: “Người đàn bà gieo mình xuống nước đến cảm tạ”. Ông Vương sẵnggiọng quát: “Ngươi là thiếu phụ, ta là người khách lẻ loi. Đêm khuya làm sao gặpgỡ cho được?” Người chồng run sợ, thưa: “Vợ chồng tôi cùng có mặt”. Ông Vươngbèn khoác áo ra tiếp. Cửa vừa mới mở, bỗng tường đổ sụp, chiếc giường ông đãnằm bị đè nát vụn. Vợ chồng người ấy cảm thán từ biệt. Sau đó, ông trở về nhà.Thầy bói gặp mặt, hết sức kinh hãi, bảo: “Khắp mặt ông hiện toàn nét âm chất.Ắt là ông đã từng cứu mạng người khác. Sau này, phước sẽ chẳng thể lường được!”Về sau, ông sanh liên tiếp mười một đứa con, thọ đến chín mươi sáu tuổi, vẫnkhoẻ mạnh.* Dương Hy Trọng đời Tống là người huyện Tân Tân. Lúc còn hàn vi, ngồidạy học tại một nhà giàu ở Thành Đô. [Tay nhà giàu ấy] có một người thiếp xinhđẹp, tự phụ tài sắc, tới chỗ ông ở để lả lơi chòng ghẹo. Hy Trọng nghiêm mặt cựtuyệt. Vợ ông Hy Trọng nằm mộng thấy thần bảo: “Chồng bà ở một mình nơi đấtkhách, trong chốn phòng kín chẳng dám khinh nhờn, sẽ đỗ đạt đứng đầu nhiềungười, hòng tỏ rõ thiện báo”. Năm sau, quả nhiên ông Dương đỗ đầu tỉnh TứXuyên.* Hiếu liêm họ Trình ở Huy Châu, nhà ở bên một con suối nhỏ. Cây cầu gỗbắc qua suối rất hẹp. Có một cô gái đến thăm người thân đi qua đó, trượt chân, rơixuống nước. Hiếu liêm sai người cứu lên, sai vợ hong khô quần áo. Trời đã tối,[cô ta] không thể trở về, lại bảo vợ ngủ chung với cô ta. Hôm sau, đưa cô ta vềnhà mẹ. Bố mẹ chồng [sắp cưới của] cô ta nghe tin, không vui, bảo: “Con dâuchưa qua khỏi cửa, đã ngủ đêm tại nhà người ta, chẳng phải là hạng gái tốt đẹp”,sai bà mối từ hôn. Hiếu liêm nghe tin, đích thân đến đó, tận lực khuyên nhủ, khiếncho cô ta được thành hôn. Chưa đầy một năm, chồng chết, để lại một đứa controng bụng vợ. Từ đấy, bà góa dạy con, đọc sách dưới đèn, thường ứa nước mắtnói: “Nếu con thành danh, đừng quên ơn của ông hiếu liêm họ Trình”. Đứa conấy còn bé đã đỗ đạt, năm Bính Thìn đi thi Hội, mỗi khi viết xong một bài, ắt đềuđọc to lên, vỗ bàn đắc ý. Sau đấy bỗng òa khóc ầm ĩ. Khéo sao, hiếu liêm ở tronglều thi gần đó, vội hỏi nguyên cớ. Thiếu niên đáp: “Bảy bài văn đều tột bậc đắcý, chẳng ngờ muội đèn rơi xuống, đều đốt thủng quyển chép bài thi, ắt sẽ bị loạibỏ. Cháu khóc là do lẽ ấy”. Ông Trình nói: “Tiếc cho bài văn hay, trở thành vôdụng. Nếu chịu cho tôi chép lại, thi đậu, tôi sẽ hậu tạ”. Thiếu niên bèn trao quyểnthi cho ông Trình chép. Quả nhiên, ông đỗ Tiến Sĩ. Sau khi yết bảng, thiếu niênđến chỗ ông Trình đòi báo đáp. Ông Trình rót rượu mời uống; do đó, thiếu niênhỏi: “Ngài có âm đức gì chăng, do văn chương của tôi mà thành danh?” Ông Trìnhtự xét lại đời mình, chẳng có âm đức chi khác. Thiếu niên cố gạn hỏi không ngừng,thật lâu sau, ông Trình kể chuyện trước kia đã từng cứu một người nữ. Thiếu niênquỳ mọp xuống đất, lạy thưa: “Tiên sinh là đại ân nhân của mẹ cháu, dám đòi báođáp ư?” Nhân đó, kể lại lời mẹ thường khóc kể trước đèn, và coi ông Trình như làthầy mình. Hai nhà bèn kết sui gia.* Từ Ngang là người xứ Dương Châu, đi thi Hội vào mùa Xuân. Trong kinhthành có thầy bói họ Vương đoán quẻ phần nhiều rất đúng. Ông Từ đến xem bói,ông Vương bảo: “Tướng ông không có con, biết làm sao được?” Về sau, ông Từthi đậu, làm quận thủ Tây An. Trên đường, mua được một cô gái rất xinh đẹp làmthiếp. Ông Từ hỏi han dòng dõi. Cô ta đáp: “Cha tôi là ông X… làm quan xứ nọ,mất vào năm nọ. Vào năm đói kém, tôi bị kẻ cường bạo bắt đem bán tới đây”.Ông Từ hết sức thương xót, liền đốt bằng khoán, chẳng lấy cô ta làm thiếp. Đếnchỗ trấn nhậm, sắm sửa đầy đủ của hồi môn, chọn người đàng hoàng để gả. Mãnnhiệm, trở về kinh, ông Vương trông thấy, kinh hãi nói: “Tướng ông khác hẳn,khắp mặt toàn là tướng có con cái. Lẽ nào chẳng phải là do âm đức gây nên ư?”Chẳng lâu sau, người tiểu thiếp của ông sanh liên tiếp năm đứa con!* Diêu Tam Cửu vốn họ Biện, học rộng, giỏi thơ văn, ngồi dạy học tại nhàhọ Hoài. Có cô gái thường lén nhòm ngó, ông Biện tỉnh bơ, chẳng ngó ngàng tới.Một hôm, ông phơi giày ngoài sân, cô gái viết thư bỏ vào đó. Nhận được thư, ôngBiện mượn cớ, từ tạ quay về. Viên Di Hạnh [viết thư thăm dò, trong thư] có kèmmột bài thơ, có những câu [ngụ ý châm chọc] như sau: “Nhất điểm trinh tâm kiênphi thạch, xuân phong đào lý mạc tương sai” (Một tấm lòng trinh bền tựa đá, gióxuân đào mận chẳng thèm ngờ). Ông Biện viết thư trả lời, cực lực biện định hoàntoàn chẳng có chuyện [trăng hoa] ấy. Viên Di Hạnh trịnh trọng viết lên phong bìcủa bức thư ấy như sau: “Đức hết sức sâu dầy, con cháu ắt hưng thịnh”. Về sau,con ông Biện là Kham, chắt là Tích, đều đỗ Tiến Sĩ.* Lâm Tăng Chí là người Ôn Châu, thờ Phật, giữ giới. Một hôm, mộng thấybảng trời, thấy đề tên mình đỗ thứ mười. Dưới đó, viết sáu chữ: “Bất sát, bất dâmchi báo”(Quả báo do chẳng giết, chẳng dâm). Năm Mậu Thìn, quả nhiên ông đỗhạng mười.* Hà Trừng do làm nghề y mà nổi tiếng. Có người họ Tôn ở cùng quận mắcbệnh đã lâu chẳng lành, mời ông Trừng đến chữa trị. Vợ người ấy ngầm nói vớiông Trừng: “Chồng tôi bị bệnh đã lâu, của cải đã bán sạch hết rồi. Xin đem thântôi để đền đáp tiền thuốc”. Ông Trừng nghiêm mặt, từ chối: “Sao bà lại hồ đồ nóinhư vậy? Nhưng hãy yên tâm, đừng lo, ta sẽ chữa trị cho chồng bà, đừng dùngchuyện ấy làm xấu ta, cũng như ô nhục chính mình”. Vợ người ấy hổ thẹn, cảmkích, lui ra. Đêm ấy, ông mộng thấy có một vị thần, dẫn đến một tòa công thự. Vịchủ tòa công thự ấy bảo: “Ngươi làm nghề y có công, lại chẳng do người ta gặpcảnh ngặt nghèo mà dâm loạn phụ nữ của kẻ khác. Ta tuân theo sắc chỉ củaThượng Đế, thưởng cho ngươi một chức quan, tiền năm vạn đồng”. Chẳng lâusau, Thái Tử bị bệnh, [hoàng đế] hạ chiếu vời Hà Trừng đến chữa trị, [Thái Tử]lành bệnh. Vua ban thưởng chức quan và tiền bạc đúng như giấc mộng.* Cha của Cao Thượng Thư ở Dương Châu buôn bán khắp một giải NamKinh và Hán Khẩu. Ở nơi quán trọ, thường ngửi thấy mùi hương An Tức ngátmũi. Một hôm, bỗng thấy một vệt kẽ hở nơi vách tường, ông dòm qua khe hở,thấy cô gái đang ngồi một mình. Hôm sau, ông hỏi thăm chủ nhân, hóa ra cô ấylà con gái ông ta. Hỏi sao không gả đi, ông ta đáp: “Chọn rể khó lắm!” Vài hômsau, ông tìm kiếm được một chàng rể, bảo chủ nhân: “Tôi thấy chàng X… ở hàngxóm rất được, muốn đứng ra làm mai. Ông thấy thế nào?” Chủ quán trọ đáp: “Ýtôi cũng nghĩ thế, nhưng nhà đó nghèo nàn!” Ông bảo: “Không sao đâu! Tôi sẽcho họ mượn tiền chi phí hôn lễ”. Bàn xong chuyện cưới gả, còn tặng nhà ấy mấychục lạng bạc để lo liệu tốt đẹp hôn sự. Ông trở về, mộng thấy thần nói: “Ông vốnkhông có con, nay ban cho ông một đứa, có thể đặt tên là Thuyên”. Năm sau, quảnhiên sanh một trai. Về sau, Thuyên đỗ Tiến Sĩ, làm quan tới chức Thượng Thư.* Chư sanh Trầm Loan ở Tùng Giang, tuổi đã trung niên vẫn chưa có connối dõi. Nhà nghèo, phải đi làm gia sư. Một đêm, trở về nhà gặp mưa, cửa đãđóng. Nghe trong nhà có tiếng gái tơ. Hỏi vợ [vọng qua cửa] thì ra là con gái nhàhàng xóm do thấy vợ ông ta quạnh quẽ nên đến bầu bạn. Ông Trầm dặn vợ đừngmở cửa, đội mưa lánh đi, ngủ tại đạo quán. Trong đêm ấy, mộng thấy Thượng ĐếChư sanh (諸生) là danh hiệu gọi chung những thư sinh đã được vào học trường công.Nói chi tiết, những người đã đỗ Tú Tài (còn gọi là Cống Sanh), đã đủ tư cách dự vào tầnglớp sĩ đại phu, được vào học các trường quốc lập tại châu, huyện, phủ thì gọi chung làTường Sanh. Nói cụ thể, người đã đậu kỳ thi Hương với điểm ưu có thể được chọn vào họctrường Quốc Tử Giám thì gọi là Cống Sanh. Học trò xuất thân là con quan, do thành tíchưu tú được vào học Quốc Tử Giám thì gọi là Giám Sanh. Học trò trường phủ huyện, đượccấp gạo hàng tháng thì gọi là Tăng Sanh. Những người được lấy thêm ngoài con số quyđịnh của Tăng Sanh thì gọi là Phụ Sanh. Những người học giỏi, hoàn cảnh khó khăn, chưađỗ đạt, sẽ được châu huyện trợ cấp, nhưng mỗi năm phải thi cử để xét xem có đủ tư cáchgiữ địa vị ấy hay không, được cấp gạo hàng tháng thì gọi là Lẫm Sanh (hay Lẫm ThiệnSanh).trao cho sợi tơ hai màu. Tỉnh giấc thì mới là giờ Tý. Thấy trong điện thờ bốn phíasáng rực, năm sắc chói mắt. Chính là vì mây tan, trăng chiếu vào điện thờ khiếnmọi vật rực rỡ. Từ đấy, ông sanh liên tiếp hai đứa con, trưởng là Văn Hệ, thứ làKhả Thiệu, nối tiếp nhau đỗ đạt.* Đời Thanh, Thái Khải Truyền ở huyện Đức Thanh thoạt đầu đi thi Hương,khi ấy, không có con. Vợ dành riêng ba mươi lạng để mua một người thiếp. Đónngười thiếp về, [cô ta] cứ khóc mãi không thôi. Ông hỏi nguồn cơn, [cô ta] thưa:“Chồng tôi do mắc nợ trong quân doanh cho nên đến nỗi này”. Ông bèn đi suốtđêm đi đến nhà chồng cô ta, bảo [người nhà của anh ta]: “Tôi sẽ vì mấy ngườigiải quyết chuyện này. Nay tôi không thể về; hễ về thì tâm tư lẫn hành vi đềukhông minh bạch”. Đợi đến khi người lính từ quân doanh trở về, ông Thái nói cặnkẽ nguyên do cùng người đó, bảo: “Ông lấy giấy nợ ra đây, tôi sẽ trả tiền”. Ôngbèn sai người đem kiệu rước người vợ trả lại cho chồng, tặng họ ba mươi lạng bạc.Về sau, phu nhân liền sanh con. Năm Canh Tuất (1670) đời Khang Hy, ông thiđậu.* Đời Minh, Văn Chánh Công Tạ Thiên, thuở trẻ, ngồi dạy học tại nhà nọ ởTỳ Lăng. Có cô gái thừa dịp cha mẹ đi vắng, đến dụ dỗ ông tằng tịu. Ông khuyêncan: “Phụ nữ chưa lấy chồng mà đã thất thân với người khác, sẽ bị điếm nhục suốtđời, sẽ khiến cho cha mẹ, chồng, họ hàng đều bị mất mặt”. Ông nghiêm mặt, cựtuyệt. Cô gái ấy hổ thẹn, rút lui. Ngày hôm sau, ông lập tức từ tạ, xin nghỉ dạy.Về sau, vào năm Ất Mùi (1475) trong niên hiệu Thành Hóa, ông đỗ TrạngNguyên, làm quan tới chức Thừa Tướng, con là Phi làm quan đến chức Thị Lang.* Phí Xu là người đất Thục (Tứ Xuyên) lên kinh đô thi Hội. Vào lúc chạngvạng, một người đàn bà tới bảo: “Tôi là con nhà buôn vải vóc. Sau khi xuất giá,chồng chết, nghèo hèn, không trở về nhà được, xin theo nương cậy ông”. Ông Phínói: “Ta chẳng muốn phạm tội phi lễ, sẽ mời cha ngươi đến đón”. Cho người hỏidò cha người ấy khắp nơi, cho biết tình trạng của nữ nhân ấy. Cha cô ta khóc lóc,cảm tạ, đem con gái về. Ngay trong năm ấy, ông Phí thi đậu, làm quan đến chứcThái Thú.Thành Hóa là niên hiệu của Minh Hiến Tông (Châu Kiến Thâm) từ năm 1464 cho đếnnăm 1487. Ất Mùi là năm Thành Hóa thứ mười một. Thị Lang (侍郎) là chức quan đã có từ đời Hán, là thuộc hạ của Thượng Thư. Đời ĐôngHán quy định, năm đầu nhậm chức sẽ gọi là Lang Trung, năm thứ hai gọi là Thượng ThưLang, năm thứ ba trở đi mới gọi là Thị Lang. Từ đời Tùy trở đi, quyền hành của ThượngThư Đài lớn dần, quyền lực và trách nhiệm của Thị Lang cũng tăng theo. Đời Thanh, đốivới mỗi bộ lại còn lập ra Hữu Thị Lang và Tả Thị Lang. Như vậy, Thị Lang tương đươngvới chức Thứ Trưởng hiện thời.* Ông Cận ở Trấn Giang đã năm mươi tuổi mà không con. Dạy trẻ vỡ lòngtại huyện Kim Đàn. Thấy con gái nhà hàng xóm khá xinh xắn, vợ ông liền bánthoa, xuyến, mua về làm thiếp. Ông trở về nhà, bà vợ bày rượu trong phòng, bảoông: “Tôi đã già chẳng thể sanh nở. Nàng này khá hiền lành, chắc có thể sanh connối dòng cho nhà họ Cận”. Ông cúi đầu, đỏ mặt tía tai. Bà vợ cho rằng mình cómặt thì chồng sẽ ngần ngại, bèn đi ra, đóng chặt cửa lại. Ông bèn leo qua cửa sổthoát ra, bảo vợ: “Ý bà tốt lành, nhưng tôi thường bồng bế cô ta thuở bé, luônmong cô ta sẽ được gả vào chỗ đàng hoàng. Tôi đã già rồi, lại còn lắm bệnh, chẳngthể làm nhục cô ta được”, bèn trả cô ấy về. Năm sau, bà vợ sanh ra Văn Hy Công,mười bảy tuổi đã đậu Giải Nguyên, năm sau đỗ nghè. Về sau, [Văn Hy Công]là một vị Tể Tướng hiền đức.* Thư sinh họ Tào ở Tùng Giang đi thi. Ở quán trọ, có người đàn bà tìm đến[dụ dỗ]. Ông Tào kinh hãi, vội chạy sang chỗ khác tá túc. Đi nửa đường, thấy cóánh đèn dẫn đường, dẫn vào một tòa cổ miếu. Nghe đánh trống thăng đường, ôngTào phủ phục trước miếu. Nghe trong điện thờ xướng danh những người được ghitên trong bảng tân khoa. Tới người thứ sáu, lại [có nha lại] bẩm rằng: “Ông X…gần đây làm chuyện sai trái, Thượng Đế gạch tên, hãy nên bù người nào vào?”Thần nói: “Ông Tào ở Tùng Giang chẳng hành dâm với người đàn bà ở quán trọ,là bậc chánh khí, đáng thêm tên vào”. [Nha lại] bèn thêm tên ông Tào vào. ÔngTào [nghe phán bảo như vậy] vừa sợ hãi, vừa vui mừng. Quả nhiên [về sau] đỗthứ sáu.* Đời Minh, tại Chiết Giang có viên Chỉ Huy Sứ, mời thầy đến dạy con.Thầy bị bệnh, con đem mền đắp cho thầy đổ mồ hôi, vô ý cuộn theo cả chiếc hàicủa mẹ làm rớt dưới giường của thầy. Thầy lẫn trò đều không biết. Chỉ Huy Sứtrông thấy, bèn nghi ngờ, vào hỏi vợ, vợ chẳng nhận, bèn sai đứa tớ gái giả vờvâng lệnh vợ đến mời thầy, cầm đao chờ sẵn sau đó. Hễ thầy mở cửa sẽ giết ngay.Thầy nghe tiếng gõ cửa, hỏi chuyện gì. Đứa tớ gái thưa: “Bà chủ cho mời thầy”.Thầy nổi giận, quát mắng đứa tớ gái, không chịu mở cửa. Chỉ Huy Sứ lại ép vợmình đích thân đến mời. Thầy vẫn kiên quyết cự tuyệt, bảo: “Tôi được ông Đôngmời về, há lén lút làm chuyện xấu xa ư? Xin hãy mau quay về”, trọn chẳng mởcửa. Viên Chỉ Huy Sứ mau chóng nguôi giận. Hôm sau, thầy xin thôi dạy. ViênChỉ Huy Sứ cảm tạ, thưa: “Tiên sinh đúng là bậc quân tử” rồi mới kể lại chuyệnấy để tạ tội. Ngay trong năm ấy, thầy thi đỗ, làm quan to.Kể từ đời Minh, người đỗ đầu trong kỳ thi Hương gọi là Giải Nguyên. Đời Minh, nhằm phân tán quyền lực quan lại đứng đầu các tỉnh (tức quan Tuần Phủ),triều đình đã lập ra ba chức quan khác biệt dưới Tuần Phủ, gồm Đô Chỉ Huy Sứ (gọi tắt làChỉ Huy Sứ, trông nom việc quân sự), Bố Chánh Sứ (coi hành việc hành chánh và tàichánh), và Án Sát Sứ (coi việc kiện tụng, tư pháp).* Ông Lâm Mậu Tiên ở Tín Châu, tài học hơn người, đã được chọn đi thiHương. Nhà hết sức nghèo, đóng cửa, đọc sách. Vợ một tay hàng xóm rất giàu,chán ghét chồng thất học, riêng hâm mộ tài danh của Mậu Tiên, ban đêm tìm đếntoan chung chạ. Mậu Tiên quở trách: “Nam nữ khác biệt, lễ pháp chẳng dung.Trời, đất, quỷ thần la liệt đông kín, há có thể ô nhục ta ư?” Bà ta hổ thẹn lui về.Năm sau, Mậu Tiên thi đậu, ba đứa con trai đều đậu Tiến Sĩ.* Đời Thanh, ông Viên ở Thiểm Tây. Do giặc Sấm (Lý Tự Thành) dấyloạn, cha con thất lạc, trôi nổi, ngụ tại Giang Nam, muốn cưới thiếp sanh con.Vừa mua được vợ, rước về nhà ông Viên, cô ta xoay lưng về ánh đèn, khóc lóc.Ông Viên gạn hỏi, cô ta đáp: “Chẳng có gì khác. Chỉ vì trong nhà đói nghèo,chồng muốn tìm cái chết, cho nên thiếp bán thân để chồng được sống. Thiếp nghĩtới vợ chồng tình sâu nghĩa nặng trước nay; vì thế, khôn ngăn đau thương vậy”.Ông thương xót, xoay lưng ngồi đợi sáng. Ngoài số tiền bán thân ra, còn tặngthêm một trăm lạng, trả người vợ cho chồng, bảo họ hãy buôn bán. Vợ chồng họkhóc lóc ra đi. Về sau, họ muốn tìm một cô gái chưa chồng, tặng cho ông Viênđể sanh con, nhưng tìm đã lâu chẳng được. Ngẫu nhiên tới Dương Châu, gặp mộtngười đem một đứa bé khôi ngô muốn bán; do vậy, họ bàn riêng với nhau: “Tachưa tìm được cô gái nào. Trước hết, hãy mua đứa trẻ này về hầu hạ ông Viên, cógì là không được?” Bèn mua lấy, vượt sông, tặng nó cho ông Viên. Ông Viên nhìnkỹ, thì ra là đứa con đã bị thất lạc. Báo ứng thần kỳ như thế đó!* Đời Minh, Văn Định Công Lục Thụ Thanh là người xứ Vân Gian. NămTân Sửu, ông lên miền Bắc. Khi ấy, quận thủ là Vương Công Hoa nằm mộng thấytrong sân của miếu Thành Hoàng có nhiều cây to đều vang ra tiếng tán thán ôngta là bậc thiện sĩ. Do vậy, gọi bố vợ của ông ta là ông Lý đến hỏi: “Thường ngày,Thụ Thanh đã làm những việc thiện nào?” Ông ta thưa không biết rõ, [chỉ biếtThụ Thanh] đối với chuyện tà sắc chẳng cẩu thả mà thôi! Về sau, [Thụ Thanh] đỗđầu kỳ thi Hội, con là Ngạn Chương đậu Tiến Sĩ vào năm Kỷ Sửu.Lý Tự Thành (1606-1645) vốn có tên là Hồng Cơ, người huyện Mễ Chỉ tỉnh Thiểm Tây,giỏi võ nghệ, xuất thân là phu dịch trạm chuyên chạy công văn cho triều đình. Do làm ăntắc trách, Tự Thành bị đuổi việc, lại mắc nợ khắp nơi. Từng bị thưa kiện, phải đeo gôngcùm, may được bạn bè chạy chọt mới thoát. Cuối năm đó, ông ta giết chủ nợ. Khi biết vợngoại tình, ông giết luôn vợ, trốn đi đăng lính, làm đến chức Bả Tổng dưới trướng TổngBinh Cam Châu là Dương Khải Cơ. Do thất thoát quân lương, để trốn tội, Lý Tự Thành bèngiết cấp trên là tham tướng Vương Quốc và huyện lệnh, dựng cờ khởi loạn. Do nhà Minhđã suy yếu, đồng thời bị quân Hậu Kim tấn công liên tiếp càng suy yếu hơn, Lý Tự Thànhthừa thế xưng vương, chiếm được kinh thành, lật đổ nhà Minh, xưng đế, lấy hiệu là ĐạiThuận. Về sau, Ngô Tam Quế liên minh cùng quân Thanh đánh bại Lý Tự Thành, quânThanh chiếm trọn Trung Hoa. Lý Tự Thành chạy trốn, đến chùa Giáp Sơn ở huyện ThạchMôn, tỉnh Hồ Nam bèn xuống tóc đi tu, xưng hiệu là hòa thượng Phụng Thiên Ngọc. Cóthuyết khác nói ông ta bị giết tại núi Cửu Cung, nhưng thuyết thứ nhất khả tín hơn vì đượcchép trong nhiều sách huyện chí của tỉnh Hồ Nam.* Đường Cao thuở trẻ đọc sách dưới đèn, có cô gái lả lơi chòng ghẹo, xé giấydán cửa sổ. Ông dán lại xong xuôi, đề thơ rằng: “Đào chỉ song dung dị bổ, tổnnhân âm chất tối nan tu” (Giấy dán song, xé rồi dễ vá; tổn đức người, há dễ đềnbù?) Về sau, một vị Tăng đi qua cửa nhà ấy, thấy có một tấm biển đề chữ TrạngNguyên, hai bên treo hai ngọn đèn, trên đèn viết hai câu ấy, lấy làm lạ, hỏi han.Sau này, quả nhiên Đường Cao đỗ Trạng Nguyên.* Đời Minh, Trương Úy Nham ở Giang Âm nằm mộng thấy mình tới mộttòa nhà cao, tìm được một danh sách ghi tên người đỗ đạt, trong ấy có nhiều dòngbị bỏ trống. Hỏi người bên cạnh, họ bảo: “Đấy là danh sách người dự thi nămnay”. Hỏi vì sao nhiều tên bị bỏ trống. Đáp: “Thi cử thì cứ ba năm khảo hạch [đứchạnh] một lần, phải là kẻ tích đức, không lầm lỗi thì mới có tên. Những chỗ bịkhuyết là tên của những kẻ được ghi tên từ trước, do gần đây mới phạm lỗi nên bịxóa tên”. [Người ấy] chỉ vào một hàng sau đó, bảo: “Ông bình sinh chẳng có dâmnghiệp, có lẽ sẽ được ghi bổ sung vào đây, hãy nên biết tự thương xót mình”.Khoa thi năm ấy, quả nhiên đỗ hạng một trăm lẻ năm.* Đời Minh, thư sinh họ Tôn ở Ninh Ba, nhà nghèo, đi dạy vỡ lòng cho trẻ.Suốt năm, chẳng qua là được trả mấy lạng bạc. Về sau, mất chỗ dạy học, bèn ởnhờ nhà họ Trương ở Đường Tây, sao chép [sách vở để lấy tiền công sống quangày]. Đứa tớ gái nhà ấy chờ đêm thâu tìm đến rủ rê chim chuột. Ông nghiêmkhắc cự tuyệt. Đứa tớ gái bèn dan díu với một thầy giáo khác cùng sống trong nhàấy. Đến tiết Đoan Ngọ, ông giáo ấy xin thôi dạy học vì bị sanh ghẻ lở, trị mãikhông lành. Ông được cử làm gia sư để thay thế. Về sau, gặp người chú tại cửasông, người chú bảo: “Do con ta bị bệnh, ta cầu đảo Thành Hoàng. Đên nằm mộngthấy Thành Hoàng ngồi trên điện, gọi nha lại đem sổ ghi tên kẻ đói rét ra sửa.Người hầu đọc tên để thần xem xét. Đọc hơn mười mấy tên, tới tên của cháu, tangầm hỏi nha lại: “Họ Tôn do duyên cớ gì mà được sửa chữa?” Nha lại đáp:“Người này năm bốn mươi sáu tuổi, lẽ ra phải bị chết đói trong khi lưu lạc bênngoài. Do đêm Mười Tám tháng Tư năm nay, cự tuyệt ả nọ dụ dỗ làm chuyện dâmbôn. Vì vậy được tăng thêm tuổi thọ hai kỷ (hai mươi bốn năm), sửa thành đượcghi tên trong sổ hưởng lộc. Ta rất mừng cho cháu vậy”. Về sau, ông được ngườitheo học càng đông. Mỗi năm thu được hơn trăm lượng bạc. Đến năm ông bốnmươi sáu tuổi, nhằm đúng năm Vạn Lịch 36 (1608), giá gạo vọt lên rất cao, ngườichết khá đông, nhưng ông vẫn dư dả. Đến khi con ông đã trưởng thành, nhà đãgiàu to. Đến tuổi cổ hy (bảy mươi), ông không bệnh tật mà mất.* Văn Hy Công Đào Đại Lâm lúc mười bảy tuổi, dung mạo đẹp đẽ, đi thiHương. Ở chỗ trọ, có cô gái hàng xóm đến [dụ dỗ] ăn nằm; ba lần tìm đến, ôngđều ba lượt từ khước, rồi tìm chỗ trọ khác. Chủ chỗ trọ ban đêm nằm mộng thấythần bảo: “Ngày mai có bậc tú sĩ đến, chính là người sẽ đỗ đầu. Do người ấy lậpchí đoan chánh, có thể không loạn dâm cùng đứa con gái dâm bôn, Thượng Đếđặc biệt cho đỗ đầu”. Chủ chỗ trọ kể chuyện nằm mộng với ông Đào, ông Đàocàng thêm gắng sức. Sau đó, ông Đào đỗ Bảng Nhãn, làm quan tới chức Đại TôngBá.* Cha ông Thời Bang Mỹ là nha tướng tại Trịnh Châu. Tuổi đã sáu mươi màkhông có con. Một lần, áp tải quân lương tới Thành Đô, vợ bảo hãy mua thiếpđem về. Ông tìm được một cô gái rất đẹp, ngó thấy cô ta dùng vải trắng buộc tóc.Hỏi han, cô ta khóc đáp: “Cha thiếp vốn là người xứ Đô Hạ, làm lính hầu cho phóquan của châu này, [bị chết], đưa quan tài đến đây thì không [đủ tiền để] trở về,[mẹ phải] đem bán thiếp để lo tang ma”. Cha ông Bang Mỹ thương xót, đem tiềngiúp đỡ bà mẹ, trả lại con gái. Lại còn lo liệu thỏa đáng cho họ trở về. Khi trở vềnhà, ông kể chuyện này với vợ. Bà vợ bảo: “Giúp người ta trong cơn nguy cấp,đức hạnh rất lớn; chuyện nạp thiếp tôi sẽ lo liệu cho ông”. Không lâu sau, bà vợhoài thai. Một đêm, mộng thấy một người sắc vàng tía ngồi đoan nghiêm giữanhà. Sáng ra bèn sanh Bang Mỹ. Bang Mỹ đỗ đầu kỳ thi Hội, làm quan tới chứcLại Bộ Thượng Thư.* Đời Minh, cha của Triệu Bỉnh Trung, [Bỉnh Trung] là Trạng Nguyên nămMậu Tuất (1598) trong niên hiệu Vạn Lịch, làm ấp duyện. Có người do thừa kếchức tước của cha mà làm Chỉ Huy Sứ bị tù oan. Ông Triệu dốc sức giúp đỡ mớiđược thả. Chỉ Huy Sứ cảm kích, hổ thẹn vì không thể đền ơn, bèn dâng con gáilàm hầu non cho ông. Ông Triệu xua tay bảo: “Đó là con gái nhà đàng hoàng,không thể được”. Người ấy cứ nài ép, lại xua tay: “Không được”. Rốt cuộc chẳngthuận theo. Về sau, con ông (Triệu Bỉnh Trung) ngồi xe công, trên đường có ngườibám vào kiệu của ông nói: “Đây là vị Trạng Nguyên nhà ông Không Được Phép”,nói mấy lượt như thế. Khi thi đậu, Bỉnh Trung quay về, kể chuyện cùng cha. Ôngbố thở dài nói: “Đó là chuyện hai mươi năm trước, ta chưa hề kể với ai. Thế màthần minh lại nói với con”.* Ông Lữ Cung làm gia sư tại nhà nọ, ban đêm thường đọc sách. Có góa phụtrẻ tuổi ở gần nhà bỗng nương theo ánh trăng tìm tới [gạ gẫm]. Ông nghiêm khắccự tuyệt. Hôm sau, cô ta lại sai thị tỳ cầm sang biếu hai con cá bằng ngọc. Ôngđập nát ngọc. Đứa tớ gái hổ thẹn lui về. Về sau, ông làm tới chức Cung Bảo, chưaĐại Tông Bá (大宗伯) chính là một chức quan coi về lễ nghi thuộc Lục Khanh vào đời TâyChâu. Do vậy, sau này, người ta quen gọi Lễ Bộ Thượng Thư là Đại Tông Bá. Ấp Duyện (邑掾): Duyện (掾) có nghĩa là “giúp đỡ”. Do vậy, chức phó quan thường gọi làDuyện. Ấp Duyện là quan phó ấp. Chữ Ấp không có nghĩa hẹp như xóm ấp trong tiếng Việt.Thời Chiến Quốc, lãnh thổ một nước chư hầu gọi là Ấp (từ đó diễn thành ý nghĩa “đấtphong của các quan to cũng được gọi là Ấp hay Thái Ấp”). Về sau, chữ Ấp chỉ kinh đô củamột nước, dần dần biến chuyển thành ý nghĩa đô thành lớn, một thị trấn đông dân cư. Ấpở đây phải hiểu theo nghĩa “huyện”, vì quan huyện thường được gọi là Ấp Úy hoặc Ấp Tể.hề kể với ai chuyện này. Ngẫu nhiên, trong khi dạy học có nhắc tới, trọn chẳngtiết lộ danh tánh của người ấy!* Đời Tống, ông Hoàng Tĩnh Quốc làm phán quan ở Nghi Châu. Một đêm,bị dẫn vào cõi âm. Viên quan trong cõi âm hỏi: “Ở Nghi Châu có một chuyện tốtđẹp, ông có biết hay không?” Sai nha lại đem sổ cho xem. Thì ra có thầy thuốctên là Niếp Tùng Chí, vào ngày tháng năm đó, đến chữa bệnh tại một nhà nọ ởHoa Đình. Vợ người bệnh ấy muốn dan díu với ông, Tùng Chí tận lực cự tuyệt.Thượng Đế sắc truyền Tùng Chí được tăng thọ hai kỷ, con cháu hai đời đều đỗđạt. Tĩnh Quốc quay về, kể với Tùng Chí. Tùng Chí đáp: “Tôi chưa hề kể chuyệnnày với vợ con, không ngờ đã được ghi chép trong sổ sách cõi âm”. Về sau, quảnhiên Tùng Chí sống thọ, con lẫn cháu đều đỗ đạt.* Đời Minh, Mao Lộc Môn vào độ tuổi nhược quan (hai mươi tuổi) sang DưDiêu học, ở trọ nhà họ Tiền ngay trước cửa miếu thờ Thành Hoàng. Có đứa tớ gáixinh đẹp, hâm mộ phong thái của chàng Mao. Một đêm, mò tới thư phòng, [giảvờ] gọi kiếm mèo. Lộc Môn bảo: “Vì sao cô một mình tới đây gọi kiếm mèo?”Đứa tớ gái cười đáp: “Tôi chẳng phải là gọi tiểu miêu (mèo con), mà là thích ĐạiMao”. Lộc Môn nghiêm mặt, đáp: “Cha sai ta đi xa cầu học. Nếu vô lễ xâm phạmcô, ngày sau, làm sao nhìn cha được? Lại còn có mặt mũi nào nhìn gặp chủ nhâncủa cô?” Đứa tớ gái hổ thẹn lui ra. Về sau, Lộc Môn thi đỗ vào khoa Mậu Tuất(1538) trong niên hiệu Gia Tĩnh, làm quan tới chức Phó Sứ, thọ chín mươi tuổi.* Viên nha lại họ Cố ở Bắc Tân Quan, Hàng Châu, vâng lệnh quan sangGiang Nam lo việc. Ban đêm, ông dừng thuyền bên bờ sông tại Tô Châu, thấymột thiếu phụ toan trầm mình, bèn ngăn lại, hỏi han. Cô ta đáp: “Chồng thiếp dothiếu quan lương mà bị bắt giam, tánh mạng sẽ mất trong sớm tối, không nỡlòng thấy chồng chết trước, cho nên tự tận”. Ông Cố mở túi tiền, biếu cô nămmươi lạng bạc. Cô ta cảm tạ, rời đi. Khi trở về, thuyền lại đi qua chỗ ấy, ông đếnquán rượu ngồi, khéo sao đối diện cửa quán chính là nhà của thiếu phụ ấy. Vợ kểchuyện ấy với chồng, mời ông về nhà, bày rượu tiếp đãi. Chồng bảo vợ: “Cái âncứu mạng do nghèo nàn chẳng báo đáp được. Nàng hãy ngủ với ông ta để đềnđáp”. Do vậy, họ giữ ông Cố ngủ lại. Nửa đêm, người vợ đến chỗ ông Cố ngủ[toan ân ái]. Ông Cố dứt khoát cự tuyệt, khoác áo trốn về thuyền. Khi ấy, trongthành Hàng Châu bị hỏa hoạn, cháy rụi mấy chục nhà. Mọi người thấy trong ánhlửa có vị thần mặc giáp vàng, tay vung vẩy lá cờ đỏ vòng quanh một ngôi nhà.Quan lương (官糧) ở đây là lương thực chu cấp cho một cơ quan hành chánh như huyện,phủ vào thời đấy. Chồng cô ta đảm trách chuyển vận lương thực hay coi kho mà để thấtthoát nên mới bị tội.Lửa cháy tới đó, bèn dồn ngược lại. Khi lửa tắt nhìn xem thì ra là nhà ông Cố, mọingười đều cho là vì âm đức mà ra!* Đời Minh, Văn Nghị Công La Luân đi thi Hội. Thuyền đi qua Tô Châu.Đêm nằm mộng, [La Luân] thấy Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) đếnthăm, bảo: “Trạng Nguyên năm sau thuộc về tay ngươi”. Ông Luân khiêm tốn từtạ, chẳng dám nhận. Ông Phạm bảo: “Chuyện ở lầu nọ vào năm nọ, quả thật đãgây tiếng vang rất lớn. Dùng chuyện này để báo đền ngươi vậy!” Do đó, La Luânnhớ năm xưa đã từng cự tuyệt kẻ nữ dâm bôn ở lầu ấy. Giấc mộng đúng là chẳnghư vọng, đến khi thi Đình, quả nhiên đậu hạng nhất.* Đời Minh, Mạc Văn Thông ở Vân Gian chuộng làm lành, sống cách quậnthành hai dặm. Nhà ông ta nhiều đời theo nghề nông. Một hôm, cầm hai mươilạng bạc vào hương trấn mua thóc giống, đậu thuyền ở Hoàng Phố. Thấy có haingười trói một cô gái, muốn dìm xuống bến sông. Ông Mạc hỏi thăm, họ đáp:“Đây là con gái của chủ nhân tôi. Chủ nhân tôi xét thấy cô này tư tình với kẻ khác,nên sai đem dìm xuống dòng nước chảy xiết!” Ông Mạc nói: “Cô gái nhỏ này thìbiết gì chớ? Lại chẳng chính mắt thấy chuyện đó, không chừng là chuyện chẳngthật, mong hãy thả đi, xin đền hai mươi lạng”. Cô gái được cứu thoát, dập đầutrước ông Mạc, xin theo hầu hạ chiếu chăn. Ông Mạc bảo: “Há có phải vì ta yêumến dung mạo của cô! Mà là đặc biệt thương xót cô trẻ tuổi bị chết mờ ám đóthôi! Nay trời đã tối mịt, mà thuyền ta nhỏ hẹp khó dung. Cô hãy mau lên bờ, điđến chỗ có ánh đèn là được rồi”. Đêm ấy, trở về nhà, mộng thấy thần bảo: “Ôngcứu mạng người khác, âm đức sâu nặng. Trời báo đáp cho ông có con cháu hiềnhòa”. Về sau, con ông là Thắng do đậu khoa thi Minh Kinh , được làm quan.Cháu là Hạo, đỗ thứ hai trong kỳ thi Hương. Con Hạo tên là Ngu cũng đậu CửNhân. Con của Ngu là Như Trung cũng đỗ thứ hai trong kỳ thi Hương, đậu TiếnSĩ vào năm Mậu Tuất (1538) trong niên hiệu Gia Tĩnh, làm quan tới chức PhươngBá. Cô gái ấy bỏ trốn, được một văn sĩ thâu nhận, sanh sáu đứa con trai, một Minh Kinh là một khoa thi được đặt ra từ đời Hán dưới thời Hán Vũ Đế, đến đời TốngThần Tông thì bị phế trừ. Do khoa thi này chú trọng khảo hạch mức độ tinh thông nghĩalý của kinh điển Nho gia nhất là Tứ Thư và Ngũ Kinh, nên gọi là Minh Kinh. Tuy vậy, MinhKinh yêu cầu không cao lắm, có nhiều cấp bậc, tối thiểu là thông thạo một bộ đại kinh(chẳng hạn như Lễ Ký, Xuân Thu Tả Truyện), một bộ trung kinh (như Châu Lễ, Lễ Nghi)và một bộ tiểu kinh như Xuân Thu Cốc Dương Truyện là được rồi. Do đó mới có thành ngữ:“Tam thập lão Minh Kinh, ngũ thập thiếu Tiến Sĩ” (ba mươi tuổi mà đậu Minh Kinh là đãquá già, năm mươi tuổi mới đỗ Tiến Sĩ vẫn còn trẻ lắm). Từ đời nhà Minh trở đi, nhữngngười đã đỗ Cống Sanh (Tú Tài) đều gọi chung là đậu Minh Kinh. Thậm chí, do đỗ đạt làmquan đều gọi là “đã đậu Minh Kinh”.Phương Bá là cách gọi thông tục chức Thừa Tuyên Bố Chánh Sứ Ty Bố Chánh Sứ, còn gọilà Phiên Đài hoặc Phiên Ty. Như tên gọi đã chỉ ra, chức vụ này chính là vị Bố Chánh Sứđứng đầu cơ quan Thừa Tuyên Bố Chánh Sứ Ty. Một Thừa Tuyên Bố Chánh Sứ Ty cai quảnđứa trong số ấy bằng tuổi với Ngu. Hà Tam Úy viết bộ Thiện Nhân Truyện đãchép chuyện này!* Tường sanh họ Liễu nhập học tại đất Hàng, do sang thăm người thân, mắcmưa, tìm chỗ ngủ tạm tại một vườn hoang. Trước đó, đã có một thiếu phụ đụt mưatại đấy. Liễu sinh suốt đêm không có ý lạ gì khác, ngồi ngay ngắn dưới mái thềmbên ngoài. Đến sáng bèn bỏ đi. Người đàn bà ấy chính là vợ của tường sanh họVương. Cô ta cảm phục đức hạnh của Liễu sinh bèn kể chuyện với chồng. Ôngchồng đâm ra nghi ngờ. Về sau, Liễu sinh đi thi Hương, bài văn của chàng đã bịloại. Trong khoảnh khắc, bỗng lại thấy đặt trên bàn. Quan giám khảo kinh dị, đọckỹ bài văn ấy, chẳng thấy có ý hay nào, lại loại bỏ. Về sau, sắp đem các quyểnbài thi đạt điểm trình lên chủ khảo, lại thấy quyển bài thi của Liễu sinh ở trong sốấy. Do vậy nghĩ tên học trò này ắt có âm đức, bèn cùng trình lên. Rốt cuộc Liễusinh đậu hạng bảy mươi mốt. Khéo sao, [bài thi của] Vương sinh được xếp cùngphòng với Liễu sinh. Khi tấn yết (thí sinh đến triều bái quan giám khảo sau khithi đậu), Vương sinh có mặt. Vị chủ khảo của phòng ấy kể rõ nguyên do chọn lựaLiễu sinh; nhân đấy, cật vấn. Liễu sinh nghĩ không còn chuyện nào khác, bèn thưalại chuyện đụt mưa. Vương sinh cảm thán, đón vợ về sum họp, lại đem em gái gảcho Liễu sinh tục huyền.* Đời Minh, Cố Tá làm châu lại tại Thái Thương, biết nỗi oan của ngườibán bánh họ Giang bèn bẩm lên quan. Được thả ra, ông Giang dẫn con gái tới nhàông Tá, thưa: “Không có gì để đền đáp, xin hãy nhận đứa con gái này làm thiếp”.Ông Tá nhất quyết từ chối. Về sau, nhiệm kỳ nha lại đã hết, ông Tá làm việc tạinha môn Thị Lang. Một hôm, ông tới nhà riêng của quan Thị Lang. Phu nhân củaquan Thị Lang trông thấy ông Tá, bèn nói: “Ông chẳng phải là Cố đề khống ởThái Thương ư? Có biết tôi hay không?” Ông Tá ngạc nhiên. Phu nhân nói: “Tôilà con gái người bán bánh. Về sau, được bán cho một thương nhân. Thương nhânnuôi tôi như con gái. Tôi được gả làm vợ lẽ cho tướng công, sau đấy, trở thànhchánh thất (vợ cả). Thường hận không có cách nào để báo đền ân đức. Tôi sẽ nóivới tướng công chuyện này”. Quan Thị Lang sau khi đã biết rõ chuyện này, [tâumột khu vực rất lớn, tương đương với một tỉnh hiện thời. Đến đời Thanh, chức vụ BốChánh Sứ chỉ là phụ tá của Tuần Phủ, đặc trách sự vụ hành chánh.Do số lượng quyển thi nhiều, nên phải chia thành nhiều phòng để chấm thi. Mỗi phòngdo một vị khảo quan (thường là một vị khoa bảng văn tài lỗi lạc) đứng đầu, dưới vị ấy cócác vị quan cấp thấp hơn phụ tá.Châu lại: Tiếng gọi chung người giúp việc hoặc thuộc cấp của quan đứng đầu một châu(tức tri phủ hoặc tri châu).Đề Khống (提控) có hai nghĩa: Một là chức quan trông coi về binh quyền; hai là tiếngtôn xưng các nha lại làm việc dưới quyền tri phủ hoặc tri huyện, vì Đề Khống có nghĩa gốclà khống chế hoặc chưởng quản. Chữ Đề Khống ở đây hiểu theo nghĩa thứ hai.lên hoàng đế]. Vua Hiếu Tông [nhà Minh] hết sức khen ngợi, thăng cấp cho CốTá làm chức Lại Bộ Chủ Sự.* Vào năm Kỷ Hợi (1659) niên hiệu Thuận Trị nhà Thanh, Từ Lập Trai ởCôn Sơn là người đỗ đầu khoa thi Đình. Vừa mới thi đỗ không lâu, có người đếnvan vái tại miếu Thành Hoàng; do đó, bèn ngủ lại miếu. Nửa đêm, thấy thần oainghiêm thăng tòa, gọi người ấy bảo: “Ngươi có biết duyên do khiến cho ông Từđỗ Trạng Nguyên hay không? Họ Từ nhiều đời chẳng dâm, tích lũy đức hạnh đãlâu, cảm động lòng trời. Nay đỗ Trạng Nguyên mới chỉ là khởi đầu [cho những sựbáo ứng tốt lành về sau]. Công danh tuy kín nhiệm, quả báo sáng vằng vặc. Tanói cho ngươi biết tường tận, hòng khiến cho những kẻ mê mờ đối với chuyệnđứng đầu trong muôn điều ác (tức tà dâm) đều giác ngộ”. [Thành Hoàng] nóixong, [thuộc hạ] thét dẹp đường, rời đi. Người ấy kính cẩn ghi lại để truyền bárộng rãi. Về sau, [em trai ông Từ] là Kiện Am thi đậu trong khoa thi năm CanhTuất, [người em kế là] Ngạn Hòa thi đỗ trong khoa thi năm Quý Sửu. Ba anh emruột đều đỗ Trạng Nguyên, con cháu nối tiếp nhau đỗ đạt.* Đời Minh, ở huyện Tiền Đường, ông Lục Tả Thắc là người hiếu thảo vớicha mẹ, hòa thuận với anh em, học rộng, nghe nhiều, những hạnh tốt đẹp khôngthể kể xiết, nhưng âm đức của ông ta người khác càng khó biết tới. Ông đã từngtrọ tại một căn nhà riêng của người bạn. Tối đến, có một phụ nữ xinh đẹp lén lúttìm tới [giở trò quyến rũ]. Ông Thắc nghiêm khắc cự tuyệt, chẳng chấp thuận. Côta xấu hổ, lui ra. Hôm sau, ông bèn mượn cớ rời đi, không ai biết chuyện. Đứchạnh, phẩm đức của ông Thắc tuy chưa tỏ lộ rõ rệt, nhưng con cháu ông ta đều dođược tuyển làm Hiếu Liêm hay đỗ các kỳ thi Minh Kinh mà vang danh khắp làngnước. Chắt là Tông Giai đậu Giải Nguyên trong khoa thi Hương, kế đó đỗ khoathi Hội. Con cháu đều rạng rỡ, thi đậu hạng cao, chưa hề gián đoạn. Quan ThịNgự Ngô Thanh Đàn ở Thạch Môn là học trò của ông Thắc, từng nghe kể chuyệnnày bèn chép lại. Hiện thời, [chuyện này] được chép trong bộ Cảm Ứng Thiên ĐồThuyết, Vương Cú ở Kim Đàn đã soạn bài ký.* Đời Minh, Mạo Khởi Tông từ bé đã kiền thành tụng niệm Cảm Ứng Thiên.Năm Mậu Ngọ đi thi Hương, hôn mê như đang nằm mộng, cảm thấy thần giúpChủ Sự là cấp quan văn thuộc hàm Chánh Lục Phẩm, trực thuộc các ty thuộc Lục Bộ, LýPhiên Viện, Thái Bộc Tự, và Tông Nhân Phủ. Nhiệm vụ chủ yếu là quản lý văn kiện cũngnhư ghi chép các sự kiện. Theo quy chế đời Minh, trong Lại Bộ gồm nhiều ty, đứng đầumỗi ty là Lang Trung, viên phó quan sẽ gọi là Viên Ngoại Lang, kế đó là Chủ Sự.Nguyên văn “tiệp nam cung” (nhận được tin mừng từ nam cung). Theo quy chế đời Hán,Thượng Thư Sảnh được coi là nằm ở phía Nam của cung vua, cho nên Thượng Thư Sảnhthường gọi là Nam Cung. Từ đời Tống trở đi, do Lễ Bộ thuộc quyền quản trị Thượng ThưSảnh, nên Lễ Bộ cũng gọi là Nam Cung. Vì các kỳ thi Hội đều do Lễ Bộ tổ chức nên hễ thiđậu trong kỳ thi Hội, đều gọi là “tiệp Nam Cung”.sức viết xong văn sách, đỗ đạt trong kỳ thi Hương, nhưng rớt kỳ thi Hội, phải quayvề. Ông phát nguyện viết chú giải thêm cho sách Cảm Ứng Thiên. Do vậy, nghĩtới chuyện hiếu sắc là chuyện hết sức tổn đức. Vì thế, đối với điều “kiến tha mỹsắc” (thấy sắc đẹp của kẻ khác) đã chép đầy đủ các chuyện báo ứng.Người giúp chép lại là La Hiến Nhạc ở Nam Xương. Năm Tân Dậu, ông Lađược chọn vào học trường huyện. Đến tháng Giêng năm Mậu Thìn, ông La mộngthấy ba vị tiên, một là cụ già đầu bạc áo vàng [đứng giữa], hai thiếu niên mặc áotía đứng hầu hai bên. Ông cụ lấy ra một quyển sách, nhìn thiếu niên bên trái, bảo:“Ngươi đọc đi”. Người đứng bên trái đọc rõ ràng rất lâu, ông La trộm nghe, thì ralà toàn bộ lời chú giải của ông Mạo đối với hai câu “kiến tha mỹ sắc…”. Đọcxong, ông cụ bảo: “Đáng thi đậu!” Cụ xoay qua nhìn người đứng bên phải, bảo:“Ngươi hãy làm một bài thơ vịnh”. Người ấy liền vịnh rằng: “Tham tương chiếtquế Quảng Hàn cung, tu tín tam thiên sắc thị không. Khán phá thế gian mê nhãntướng. Bảng hoa nhất đáo mãn thành hồng” (Cành quế cung trăng toan muốn bẻ,phải tin trần thế, sắc là không. Nhìn thấu tướng mê trong thế giới, bảng hoa nứctiếp khắp toàn thành). Ông La tỉnh giấc, gởi thư cho Mạo Khởi Tông, thuật cặnkẽ chuyện trong mộng, bảo: “Ngài sẽ thi đậu, nhưng hai chữ Bảng Hoa khó hiểu”.Khi niêm yết kết quả khoa thi, quả nhiên ông Mạo đỗ cao. Về sau, ở thư phòngcủa Trần Tông Cửu, ông Mạo thấy trong sách Loại Thư có chú giải về hai chữBảng Hoa như sau:“Vào thời Đường, khi bộ Lễ yết bảng, sẽ gọi những họ hiếmthấy là Bảng Hoa”. Họ Mạo (冒) [do hiếm thấy] quả thật tương ứng [với chữBảng Hoa].Họa dâm án (Những chuyện mắc họa vì dâm)* Lý Đăng đỗ Giải Nguyên lúc mười tám tuổi. Về sau, đến tuổi năm mươi,vẫn chẳng đỗ Tiến Sĩ. Đến chỗ Diệp pháp sư để nhờ Sư hỏi nguyên nhân. Sư thưahỏi Văn Xương Đế Quân. Đế Quân sai thư lại cầm sổ đến, chỉ rõ: “Khi Lý Đăngsanh ra, được Thượng Đế ban ấn ngọc, [định rằng] mười tám tuổi đậu GiảiNguyên, mười chín tuổi sẽ đỗ Trạng Nguyên. Hai mươi tuổi sẽ làm Hữu ThừaTướng. Chỉ vì sau khi thi đỗ [Giải Nguyên], ngấm ngầm dòm ngó [chòng ghẹo]gái hàng xóm. Tuy [chuyện tà hạnh] không thành công, lại ngược ngạo [kiếm cớcáo giác], khiến cho cha cô ta bị tù. Do chuyện này, công danh bị chậm trễ mườinăm, thứ hạng [từ Trạng Nguyên] bị giáng xuống hàng Nhị Giáp. Kế đó, lại lấnchiếm nền nhà của anh mình, dẫn tới chuyện kiện cáo. [Công danh] lại bị chậmtrễ mười năm, thứ bậc đỗ đạt giáng xuống Tam Giáp. Sau đó, trong khách điếmtại Trường An, lại làm chuyện dâm bôn với một người đàn bà nhà lành, [côngdanh] lại bị chậm trễ mười năm. Nay lại lén lút tằng tịu với con gái nhà hàng xóm,làm ác chẳng hối cải, tài lộc hoàn toàn bị tước sạch, sắp tới hạn kỳ chết rồi!” Sưtrở về thuật lại, ông Đăng xấu hổ, hối hận mà chết.Nhận định: Lý Đăng đáng gọi là “kẻ tự chế tạo gông cùm lặp đi lặp lại” vậy.Nếu sớm sanh lòng hối hận, tu đức để chuộc oan khiên, ắt sẽ đậu Trạng Nguyên,làm Tể Tướng, có thể trả lại ngọc bích cho nước Triệu . Nếu chẳng vậy, lỡ làmquấy một lần, về sau chẳng tái phạm nữa, ắt đối với chuyện đỗ đạt hiển vinh, hãycòn được hưởng một nửa. [Trạng Nguyên, Tể Tướng] là do trời đất vun bồi, do tổtông tích lũy [âm đức], nay vì một mình ông ta [làm quấy mà bị] tước sạch! Phụbạc [ân đức của trời đất, tổ tiên] quá đỗi!Lại nữa, thú vui dâm tà so với khoa bảng chẳng bằng một phần vạn; thế màđem đổi sự phú quý suốt cả một đời bằng niềm vui sướng trong chốc lát, há cũngchẳng phải là quá sức ngu muội ư! Ôi! Người đỗ Trạng Nguyên sẽ làm Tể Tướng,trong mấy trăm năm chỉ thấy một, hai người! Do tạo chuyện oan nghiệt ấy, mấtsạch chẳng còn sót gì! Huống hồ vận mạng của người khác chẳng bằng một phầnvạn Lý Đăng mà cùng tạo nghiệp giống như ông ta, tôi sợ rằng vị thần chưởngquản tài lộc chưa chắc đã chỉ phạt thứ bậc đỗ đạt thấp hơn, lại còn kéo dài thờihạn để mong ông ta sửa đổi! Nguy hiểm lắm thay! Những kẻ tài cao học rộngtrong hiện thời, đến tận tuổi già vẫn nghèo túng, khốn đốn, hãy nên tự xét nhữngchuyện đã làm để xem có phải là đã phạm vào loại tội nghiệt này hay chăng?Giải Nguyên (解元): Người đỗ đầu khoa thi Hương.Thời Chiến Quốc, nước Triệu sở hữu viên ngọc Biện Hòa, vua Tần đem mười thành đòiđổi, nhưng vua Triệu từ khước. Về sau, Triệu bị Tần áp bức quá mức phải hiến ngọc. Thànhngữ “hoàn bích quy Triệu” được sử dụng với ý nghĩa “sẽ trở lại tốt đẹp như ban đầu”.* Từ sinh là con cháu nhà quan, tuổi trẻ đã nổi tiếng có tài, do lén lút ngấpnghé sắc đẹp của gái hàng xóm, bèn dụ vợ mua chuộc để chèo kéo cô ta đến nhàthêu thùa, khiến cho cô ta thường qua lại. Một hôm, sau khi Từ sinh đã nấp dướigầm giường, vợ giả vờ ra ngoài trông coi bếp núc. Từ sinh cưỡng gian cô ta.Chuyện lộ ra. Cha mẹ cô gái ấy ép cô ta tự tử. Sau đấy, mỗi lần Từ sinh vào trườngthi, đều thấy cô gái ấy mặc quần áo dính máu đi đến, chẳng hề thi đậu. Về sau, bịloạn quân giết chết!* Trương Minh Tam theo cha đến chỗ trấn nhậm ở vùng Quỳnh Nhai, thônggian với hai cô con gái viên quan Chỉ Huy Sứ gần đó, lén mang hai cô gái vượtbiển. Cha họ gấp rút đuổi theo, Minh Tam hết cách, đẩy hai cô xuống nước chochết đuối. Mười năm sau, Minh Tam bị đau thắt lưng, đón thầy thuốc họ Tôn đếnchữa trị. Bệnh hơi bớt, tối hôm ấy, ông Tôn mộng thấy hai cô gái lôi ông ta xuốngnước, bảo: “Thiếp vốn là người Quỳnh Nhai, đến đòi mạng họ Trương, cớ sao ôngngăn trở chúng tôi báo thù?” Ông Tôn kinh hãi, tỉnh giấc, kể lại với Minh Tam.Minh Tam đấm ngực than thở: “Oan nghiệt đã tới rồi! Ta nguy mất rồi!” Mộttháng sau bèn chết!* Lưu Nghiêu Cử ở huyện Long Thư thuê một chiếc thuyền chở mình đi thi.Chủ thuyền có một cô con gái, họ Lưu mấy lượt ve vãn, nhưng không có dịp nàora tay. Tới vòng thi thứ hai, họ Lưu ra khỏi trường thi rất sớm, nhằm đúng lúc chủthuyền vào chợ mua bán, bèn thông dâm với cô gái ấy. Đêm hôm ấy, cha mẹ củaông Lưu mộng thấy thần bảo: “Cậu nhà lẽ ra đỗ đầu, nhưng vì làm chuyện bấtnghĩa, bảng trời đã xóa tên rồi!” Đến khi yết bảng, mới biết quan chủ khảo vốnđã tính lấy họ Lưu đỗ đầu, nhưng do thấy [bài văn có chỗ] phạm trường quy bènloại bỏ. Họ Lưu hết sức hối hận; sau đấy, suốt đời chẳng đỗ đạt gì!* Ở huyện Thường Thục có một tay viên ngoại lang họ Tiền, cậy vào tiềntài, thế lực, ức hiếp kẻ khác. Trong làng, có một phụ nữ xinh đẹp, nhà nghèo, họTiền bèn cho chồng cô ta mượn tiền để buôn vải ở Lâm Thanh hòng nhờ dịp đó,tư thông với người vợ. Một hôm, chồng cô ta ra khỏi cửa, do thủy triều cạn, khôngthể đi được, lại quay về, thấy họ Tiền đang ôm vợ mình, chè chén khoái trá. Chồngvừa thẹn vừa giận, quay về thuyền. Họ Tiền ngầm mưu tính với vợ anh ta, đếnđêm sai người giả làm cướp giết chết. Họ hàng biết chuyện, thưa lên quan. Đãnhận tội rồi, họ Tiền lại rải tiền bạc để chạy chọt, thoát khỏi xử phạt. Vừa ra tớicửa thành, bỗng dưng giông tố ùa tới, hai kẻ đó đều bị sét đánh chết tươi!Nhận định: Đã dâm vợ lại còn giết chồng, thiên lý khó dung, oan hồn chẳngnguôi cừu hận được! Vì thế, tuy con người mưu mô xảo quyệt, trời lẫn thần đềuQuỳnh Nhai là một vịnh biển tại đảo Hải Nam.báo ứng. Thử xem hạng người như vậy mà được bình yên không bị báo ứng, trămkẻ chẳng được một, cũng chẳng khác gì vung đao tự giết mình vậy!* Đời Minh, Lục Trọng Tích sanh ra đã có tài lạ. Khi mười bảy tuổi, theothầy là ông Khâu lên sống ở kinh đô. Nhà đối diện có một cô gái rất đẹp. Haingười lén ngấp nghé nhau, đều động tâm. Thầy xui: “Thành Hoàng ở kinh đôthiêng nhất, ngươi hãy thử cầu khẩn, may ra được thỏa nguyện”, bèn đến cầu khấn.Đêm ấy, chàng Lục mộng thấy mình và thầy đều bị Thành Hoàng truy bắt, quởtrách nặng nề. [Thành Hoàng] sai thuộc hạ tra xét tài lộc, địa vị. Kiểm sổ sách,thấy dưới tên họ Lục có ghi chú: “Đỗ Trạng Nguyên năm Giáp Tuất”, còn dướitên họ Khâu chẳng có gì hết. Thần bảo: “Ta sẽ tấu sớ lên Thượng Đế, gạt bỏ tênngươi khỏi sổ, rút ruột họ Khâu”. Vừa mới tỉnh mộng, thằng hầu trong quán trọgõ cửa, báo tin: “Khâu tiên sinh bị nghẽn ruột, sa đì chết mất rồi”. Sau này, TrọngTích nghèo hèn suốt đời!* Đời Thanh, huyện lệnh huyện Túc Tùng là Châu Duy Cao, làm giám khảotrường thi khoa Kỷ Dậu ở Giang Nam, chấm đậu một quyển bài thi. Đến đêm,nằm mộng, thấy có người nói: “Người này ẩn giấu điều ác, chẳng thể cho đậuđược!” Dùng tay viết một chữ Dâm cho ông Châu thấy. Hỏi tường tận nguyên cớ,người ấy không đáp. Hôm sau, ông Châu quên bẵng giấc mộng trên đây, đemquyển văn ấy trình lên. Quan chủ khảo hết sức tán thưởng ý tứ mới lạ. [Quan chủkhảo] bỗng lấy bút xóa đi hai chữ “hiểm trở”trong bài văn. Ông Châu bẩm:“Trong quyển bài thi, những chữ giống như vậy không ít, có lẽ chẳng nên xóa đi”.Quan chủ khảo cũng hối tiếc, bảo ông Châu tẩy nét đã gạch xóa. Đến khi xóa vếtgạch bỏ, dấu mực đã thấm xuống mấy tầng giấy. Ông bỗng nhớ lại giấc mộngtrước đó, bèn loại bỏ bài văn đó. Nhưng rốt cuộc ông Châu vẫn yêu mến bài vănấy, đặc biệt giữ lại bài viết ấy, nhưng không biết tên họ [người viết bài ấy]. Viêngiám khảo thuộc phòng ông Châu là Ngô Lý Thanh đã kể chuyện này.* Trương Bảo làm tri phủ ở Thành Đô, thấy vợ của Lý Úy ở Hoa Dương xinhđẹp, muốn tư thông. Khéo sao, Lý Úy do tham ô bị bại lộ; ông Bảo thừa cơ đànhặc, khiến cho ông Lý bị đày xuống Lãnh Nam. Ông ta chết trên đường đi. ÔngBảo mua chuộc mẹ Lý Úy để xin cưới, hết sức vui thú. Bỗng dưng vợ bị bệnh,thấy Lý Úy đứng bên cạnh, bèn chết. Ông Bảo cũng nhiễm bệnh, mộng thấy vợnói: “Lý Úy đã thưa lên Thượng Đế, sẽ bắt ông trong sớm tối, hãy nên ẩn nấp choNguyên văn “Châu công bổn phòng”. Theo lệ thi cử xưa, nhất là trong các kỳ thi Hươngvà thi Hội, do số thí sinh đông đảo, các giám khảo (thường gọi là “khảo quan”) phải chiathành nhiều phòng để chấm các quyển văn (bài thi thường gọi là đối sách hoặc văn sáchđược viết vào một quyển giấy trắng). Phòng chấm thi của một vị quan sẽ gọi là “bổnphòng”. Mỗi vị khảo quan lại có những viên quan chức vụ nhỏ hơn phụ tá. Do ông Ngô LýThanh phụ tá ông Châu Duy Cao, nên gọi là “Châu công bổn phòng”.kín”. Trương Bảo tỉnh giấc, ghi nhớ trong lòng. Một tối đang ngồi, thấy trước dinhcó người mặc áo, có tay áo màu hồng vẫy gọi. Ông ta nghĩ là vợ của Lý Úy bènvội vàng chạy tới, thì ra Lý Úy. Lý Úy ôm chặt Trương Bảo đấm đá, [TrươngBảo] miệng mũi đều xuất huyết mà chết.* Đời Thanh, tường sanh họ Uông ở Phượng Dương, trong nhà có một cái aonhỏ trồng sen, còn chưa trổ hoa. Năm Kỷ Dậu (1669) thời Khang Hy, khi sắp đithi, bỗng thấy trong ao nở một cặp hoa sen chung cuống. Cha mẹ hết sức vuimừng. Ban đêm, chàng Uông dùng rượu quyến rũ, nài ép đứa tớ gái, vợ chẳngngăn cản, bèn tư thông với nó. Sáng dậy, nhìn hoa đã thấy gãy nát. Cha mẹ hếtsức tiếc hận. Uông sinh mộng thấy yết kiến Văn Xương [Đế Quân], thấy tên mìnhđược ghi trên bảng trời, bỗng bị Đế Quân gạch bỏ. Ứa nước mắt lạy lục, van nài,ba lượt bị gạt xuống. Trong tâm biết là chuyện chẳng lành, [nhưng kỳ thi đã tớibèn] gấp rút lên đường. Khi ấy, quan giám khảo Giản Văn Tông chấm bài rất côngbằng. Theo hạn ngạch từ trước, phủ Phượng Dương được chọn đậu ba người, thamdự kỳ thi lần này chỉ có ba người, riêng mình chàng Uông thi rớt! Thi cả ba lầnđều trượt, ứa nước mắt trở về.* Đời Minh, tường sanh họ Vương ở ấp Ngọc Sơn lấy vợ ngay trong lúc cònlàm đám tang cho mẹ. Ước định hết kỳ cúng thất sẽ làm lễ động phòng. ChàngVương ngủ bên linh cữu, còn vợ ngủ trong phòng. Ban đêm, nghe tiếng gõ cửa,đứa tớ gái thưa “chàng rể đã tới”, vợ rước vào, cùng ngủ với nhau. Nghe trốngđiểm canh năm, [người ấy] bèn rời đi, bảo: “Sợ người ngoài biết, trách tội ta bấthiếu”. Được mấy hôm, [người ấy] lại hỏi đến của hồi môn. Vợ đáp: “Ngoài quầnáo sắp sẵn mang theo, còn có tám mươi lạng bạc, cùng với trâm vàng, bông taiđều đặt trong chiếc rương nhỏ”. Trống canh năm vừa điểm, người ấy bèn ôm đi,không giao trả lại. Đợi đến lúc hết thất, chàng Vương bày tiệc rượu làm lễ thànhhôn, nói chuyện với nhau, vợ mới biết đã bị kẻ giặc lừa gạt, giậm chân, đau đớnkhóc rống, thề chẳng muốn sống nữa. Trở về thưa chuyện cùng cha mẹ rồi treo cổchết. Tới khi an táng, chàng Vương đưa quan tài tới mộ, bỗng sấm chớp giao nhaugiáng xuống, chụp lấy một người đưa tới quỳ trước quan tài, thì ra là anh họ củachàng Vương, hai tay ôm vòng vàng và bạc trắng, vẫn quỳ tuy đã bị sét đánh chết,thi thể tả tơi. Cả ấp kinh hãi. Đấy là chuyện xảy ra vào năm Chánh Đức thứ chín(1514).* Trong niên hiệu Thuận Trị đời Thanh, có người họ Tiền ở huyện Gia Hưng,khi chưa đi thi, ngồi dạy học tại nhà của một người nọ là dân trong làng. [Ngườiấy] có cô con gái mười bảy tuổi. Nhằm lễ Thanh Minh, cả nhà đều đi tảo mộ,Chánh Đức là niên hiệu của Minh Vũ Tông (Châu Hậu Chiếu), vua thứ mười một nhàMinh.cúng bái, chỉ để cô ta ở lại trông nhà. Họ Tiền bèn lén lút tằng tịu với cô ta. Vềsau, bụng cô to dần. Cha mẹ cật vấn, cô ta bèn thú thật. Cha mẹ cô thấy họ Tiềncòn chưa cưới, muốn gả tống gả tháo cô gái ấy đi để bưng bít chuyện xấu ấy; dovậy, tìm đến họ Tiền để bàn bạc cặn kẽ. Họ Tiền cố ý ra vẻ giận dữ, bảo: “Congái mấy người không ra gì, muốn làm nhục kẻ khác hả?” Cha mẹ cô ta căm phẫn,quay lại chửi bới cô. Cô gái ấy bèn treo cổ tự tử. Về sau, họ Tiền thường mộngthấy cô ta ôm con đứng trước mặt. Sau khi thi đậu, làm quan coi án ở Giang Ninh.Khi đó, do vùng Trấn Giang biến loạn, [quan trên] giao những kẻ theo giặc làmloạn cho họ Tiền thẩm tra. [Về sau], triều đình do xét thấy họ Tiền ăn hối lộ [thabổng cho những kẻ phản loạn đó], phán họ Tiền chịu án treo cổ. Ngay trong ngày[triều đình] xuống lệnh thi hành án, họ Tiền lại mộng thấy cô gái ấy dùng mảnhkhăn hồng buộc cổ anh ta. Ngày hôm sau, họ Tiền liền bị tử hình.* Thư sinh nọ ở Sơn Đông, đêm trước ngày vào trường thi, đứa đầy tớ bỗngchết, bèn tạm để xác nó trong một căn phòng. Đến khi anh ta ra khỏi trường thi,đứa đầy tớ đã tỉnh lại, kể: “Hôm qua, tôi theo chủ nhân vào trường thi, nghe nóigia chủ đã được ghi tên đỗ hạng mấy. Lại thấy [trước lều thi của] những người thiđỗ đều có cờ hồng, gia chủ cũng có”. Thư sinh hết sức mừng rỡ. Đứa đầy tớ xingia chủ sau khi thi đỗ, sẽ cưới vợ cho nó. Thư sinh nói: “Tao sẽ cưới cho mày đứacon gái ở nhà đối diện, có được hay không?” Đứa đầy tớ khiêm nhượng, thưa:“Không dám”. Thư sinh nói: “Sau khi tao đã đậu, còn sợ gì họ chẳng dâng lênchứ?” Trong vòng thi thứ nhất, đứa đầy tớ lại chết, khi sống lại, sắc mặt lộ vẻgiận, nói: “Chủ nhân không đậu nổi đâu!” Thư sinh kinh hãi, hỏi nguyên cớ. Đầytớ thưa: “Tôi thấy quan phủ điểm danh tới tên chủ nhân, bỗng nói: ‘Gã ấy chưađậu mà đã ngấp nghé tạo ác!’ Sai người sửa lại, thay tên họ Triệu vào! Trước têncủa chủ nhân đã không thấy có cờ hồng nữa”. Thư sinh nửa tin, nửa ngờ. Khi yếtbảng, quả nhiên họ Triệu đỗ hạng thứ mấy [đúng như lời đứa đầy tớ đã nói]. [Vềsau, hỏi ra mới biết] khi các vị giám khảo thâu nhận quyển văn trình lên chủ khảo,bảy bài văn sách của chàng thư sinh ấy đều trọn vẹn. Nào ngờ khi chấm bài, cácquyển văn của chàng ta trong vòng thi thứ ba đều bị tàn lửa đèn đốt mất nửa trang,không thể trình lên chánh chủ khảo được. Do vậy, bèn lấy những quyển lạc đềcủa chàng bù vào. Chàng thư sinh ấy buồn rầu, hối hận chẳng thôi! Chuyện nàydo chính tiên sinh Tống Lệ Thường ở Lai Dương kể lại, do ông ta cùng làng vớichàng thư sinh ấy, nên không nói rõ tên.* Đời Minh, có tiệm nhuộm ở huyện Nghi Hưng, [chủ nhân là] một góa phụxinh đẹp tột bậc. Gã lái buôn gỗ trông thấy bèn yêu mến, dụ dỗ đủ kiểu, rốt cuộcvẫn không thể chinh phục được. Vì thế, lập mưu ban đêm quăng mấy cây gỗ vàonhà bà ta. Hôm sau, thưa bà ta can tội trộm cắp. Lại hối lộ quan lại trên dưới,khiến cho bà ta hết sức khốn quẫn, nhục nhã, mong bà ta sẽ phải theo mình. Trongnhà, bà ta thành kính thờ Triệu Huyền Đàn, bèn khóc lóc bẩm cáo. Đến đêm,mộng thấy thần dạy: “Đã sai hắc hổ rồi!” Không đầy mấy ngày, gã thương giavào núi mua gỗ, từ trong rừng cây, một con cọp đen xông ra, cắn đứt đầu đem đi!* Đời Thanh, tường sanh họ Chi ở Gia Thiện, đi thi Hương vào mùa Thunăm Kỷ Dậu (1669) triều Khang Hy trở về, nói với người bạn họ Cố: “Tôi thầnhồn hoảng hốt, dường như bị quỷ quấy nhiễu, muốn cậy vị Tăng nọ để sám hốioan nghiệt xưa kia”. Ông Cố nói “rất nên”, mời vị Tăng cùng đến thăm ông Chi.Ông Chi chợt phát cuồng, nói: “Ta ngậm oan ba đời, nay mới hại được ngươi!”Vị tăng hỏi: “Có thù hận gì?” Trả lời: “Đời trước ta là thuộc tướng của nó, nó làchủ tướng. Nó thuộc họ Diêu là họ có công lao hiển hách trong triều. Nó thấy vợta trẻ tuổi, xinh đẹp, sai ta đem quân xuất chinh, bị vây hãm trong tử địa để mưuchiếm đoạt vợ ta. Vợ tự vẫn. Một nhà cốt nhục chia lìa. Sau đó, nó chết vì chuyệntrung nghĩa, ta chưa thể báo thù được. Đời sau đó, nó là bậc cao tăng, lại chẳngbáo thù được. Đời thứ ba nó làm Tể Tướng, tận hết trách nhiệm, thần phước lộcbảo vệ nó, ta vẫn không trả thù được! Đời này, lẽ ra nó đỗ đạt. [Đời này] ta đã đợisuốt ba mươi năm, do gần đây nó phạm dâm nghiệp, bị xóa tên trong sổ VănXương, nên ta mới ra tay được”. Khi nói, căm hận, giận dữ không thôi. Ông Cốbảo: “Oán hãy nên cởi, chớ nên buộc”. Oan hồn đáp: “Nỗi hận của ta khó thể giảitrừ được! Chẳng thể dung tha nó”. Rốt cuộc, ông Chi điên cuồng mà chết.* Thư sinh nọ ở Quý Châu đi thi nhiều lần chẳng đậu, cầu khẩn Trương chânnhân dâng sớ xin xem thiên bảng. Thần phê rằng: “Mạng người này đáng lẽ đỗđạt, do lén lút với người thím nên bị gạt bỏ”. [Trương chân nhân] xuất định nóivới thư sinh ấy. Thư sinh bảo không có chuyện đó, bèn dâng điệp biện bạch. Thầnlại phê rằng: “Tuy chẳng có chuyện ấy, nhưng thật sự có cái tâm ấy”. Thư sinhhối hận chẳng kịp, ấy là vì thuở trẻ, thấy bà thím xinh đẹp, ngẫu nhiên dấy độngmột niệm mà ra!* Nghiêm Vũ thuở trẻ có hàng xóm là một vị tướng lãnh trong quân đội. HọNghiêm lén thấy con gái ông ta xinh đẹp, bèn dùng trăm kế dụ dỗ theo mình bỏtrốn. Vị tướng quân vào cung tâu lên vua. Vua hạ chiếu truy bắt họ. Nghiêm VũTriệu Huyền Đàn (趙玄壇) là một vị thần của Đạo giáo. Theo truyền thuyết, ông ta tên làTriệu Lương, tự là Công Minh, là một trong bốn vị đại hộ pháp nguyên soái của Đạo giáo,nên còn gọi là Huyền Đàn Nguyên Soái (Huyền Đàn có nghĩa là trai đàn, mang ý nghĩa hộpháp). Ông còn được coi là Vũ Tài Thần vì thống lãnh các thuộc hạ là Chiêu Bảo Thiên Tôn,Nạp Trân Thiên Tôn, Chiêu Tài Sứ Giả, và Lợi Thị Thiên Quan, được gọi chung là Ngũ LộTài Thần. Theo truyền thuyết, ông là người sống trong núi Chung Nam, đã ở ẩn trong núitừ đời Tần. Khi Trương Đạo Lăng (sáng tổ Thiên Sư Giáo) tu hành tại Hạc Minh Sơn, đãđược Triệu Huyền Đàn thâu làm đồ đệ, truyền thuật luyện đan, và các loại bùa phép khác.Về sau, Trương Đạo Lăng truyền đạo, lập ra Đạo giáo (thường gọi là Chánh Nhất Đạo, hoặcThiên Sư Giáo, là một trong những phái Đạo giáo đầu tiên). Triệu Huyền Đàn thường đượcmô tả dưới diện mạo mặt đen, râu dài, tay cầm roi sắt, cưỡi hắc hổ.sợ tội, thắt cổ cho nàng ta chết để hủy diệt tung tích. Đến khi mắc bệnh ở đất Thục(Tứ Xuyên), thấy cô ta đến đòi mạng, bảo: “Thiếp tuy mất nết, chẳng hề phụchàng. Thế mà bị chàng giết chết, đúng là kẻ tàn nhẫn. Thiếp đã tố cáo lên ThượngĐế, kỳ hạn là ngày mai!” Quả nhiên, rạng đông hôm sau, họ Nghiêm chết ngắc!* Ở đất Giang Ninh có một sai dịch họ Lưu. Có một phạm nhân mắc tội ngồitù, cần phải dùng hơn mười lạng bạc để chuộc tội thì mới được thả về. Phạm nhâncậy họ Lưu đến nhà mình bảo vợ bán con gái để chuộc tội. Họ Lưu liền đến bànbạc với vợ người ấy. Do bà vợ khá xinh đẹp, họ Lưu muốn gian dâm. Bà vợ vìthấy tánh mạng của chồng cần phải nhờ cậy gã này che chở, nên miễn cưỡng thuậntheo. Sau đó, bán con gái được hai mươi lạng bạc, giao hết cho họ Lưu làm chiphí chuộc tội. Họ Lưu cầm tiền tự xài, chẳng giao nạp. Người vợ cứ nghĩ bạc đãnộp cho quan, chắc không lâu chồng sẽ trở về. Đợi mấy hôm, chẳng có tin tức gì,bèn cậy một người trong họ dò hỏi, nhân đó, [người ấy] kể rõ nguyên do với phạmnhân. Phạm nhân biết chuyện, gào khóc rồi chết. Mười ngày sau, sai dịch họ Lưuhết rét lại sốt, tự nói: “Người đó đã kiện ta lên thần Đông Nhạc, tức khắc phải bịthẩm tra”. Sau đấy, nằm gục xuống chiếu, rên siết ai oán, tự nói: “Đáng chết!”Rồi lại nói: “Do ta quen nói dối, phải dùng móc sắt kéo lưỡi”. Trong khoảnh khắc,lưỡi thè ra mấy tấc, tự cắn cho tan nát, huyết nhục đầm đìa mà chết.* Họ Dương ở Túc Tùng là người có tiếng tăm trong trường, thờ phụng QuanĐế hết sức thành kính. Ban đêm, mộng thấy Quan Đế ban cho cái ấn vuông, bènnghĩ ắt sẽ thi đỗ. Sau đó, ở dưới lầu, gian dâm con gái nhà lành. Vào trường thixong, trở về nhà, lại mộng thấy Quan Đế đòi lại ấn. Họ Dương nói: “Ấn đã chotôi rồi, sao lại đòi lấy?” Quan Đế nói: “Không chỉ là đòi ấn, mà còn đòi mạngmày nữa! Chuyện dưới lầu đó, vào tháng đó, mày an lòng chưa?” Chưa đầy mộttháng, cha con bọn họ đều chết ráo!* Trong niên hiệu Chánh Đức đời Minh, Phù tú tài ở Tứ Minh sau khi đãchết, báo mộng cho con: “Khi còn sống, ta đã phạm luật cấm về gian dâm. Ngàymai sẽ đầu thai làm con chó trong nhà Tạ ngũ lang ở phía Nam thành, hãy maugấp làm chuyện lành, sám hối cho ta”. Nói xong, một con quỷ buộc cổ lôi đi. Mộtquỷ tốt khác lấy tấm da trắng phủ lên đầu ông ta. Ông ta khóc lóc bi thương, tậptễnh ra đi. Đứa con kinh hãi tỉnh mộng. Ngày hôm sau, nhà họ Tạ quả nhiên cómột con chó được sanh ra, toàn thân trắng muốt. Đứa con xin đổi lấy đem về nhà,vì cha rộng làm các việc lành. Năm sáu năm sau, chó bỏ ăn mà chết. Hơn thángsau, đứa a hoàn bé trong nhà, bỗng ngồi giữa nhà, nói to, giống như dáng vẻ củaPhù tú tài, gọi người nhà đến bảo: “Ta thật sự chưa từng phạm dâm. Do lúc mườitám tuổi, đi qua phòng chị dâu. Chị dâu vừa mới rửa sạch trang điểm, làm rớt cáinhẫn xuống đất, sai ta nhặt lên. Do vậy, ta hứng tình. Về sau, [chị dâu] lại thườngcùng ta cười nói, suýt nữa phá sạch lễ nghĩa! Rốt cuộc chị dâu bị bệnh chết, tacảm thấy tinh thần rối loạn. Năm sau cũng chết. Sau khi chết, có quỷ trói dẫn đếndưới sân một tòa quan phủ, hai tay chống xuống đất, đã thành hình dạng chó. Naynhờ ngươi làm việc thiện có công, đã sám trừ sạch nỗi oan nghiệt trước kia, sẽsanh làm con thứ năm trong nhà thầy lang họ Triệu ở Sơn Đông. Ta trở về nhà từbiệt”. Nói xong, đứa tiểu a hoàn ngã lăn ra đất, tỉnh lại.* Họ Lữ ở Vân Gian là con nhà thế gia, mặc sức dâm dục. Tớ gái, gia nhânđều bị ông ta thường ô nhục đến nỗi ngã bệnh. Về sau, con cái trai gái đều chếtsạch. Vì chuyện trong giới quan trường mà bị tan nhà nát cửa, nhiều lần bị hạngục, tra tấn. Tuổi trung niên chịu đủ mọi nỗi khốn khổ tột bậc, lạnh không cóáo, đói chẳng có ăn, nhà không có được cái nóc rách, bệnh tật không có ngườichăm sóc. Đến lúc chết, quan tài lẫn vải liệm đều không có, giòi bọ khắp thân,người trông thấy không ai chẳng kinh sợ!* Đời Thanh, trong khoa thi năm Quý Dậu (1693) triều Khang Hy, một lẫmsanh ở Tùng Giang vào trường thi thứ nhất, vừa nhận quyển thi, bỗng thấy mộtcon quỷ theo vào trường thi, khóc lóc ầm ĩ suốt đêm, cả trường thi đều bất an.Đến chiều hôm sau, [lẫm sanh ấy] vừa viết xong bản nháp bài văn sách cho vòngthi thứ ba, quỷ xông vào nắm cổ [anh ta]. Vì thế, kêu gào những các thí sinh ở cáclều gần đó cứu mạng. [Anh ta] khóc lóc, nói: “Năm nọ tôi đến đất Sở (Hồ Nam),do ưa thích một người con gái, vờ hứa hẹn sẽ lấy cô ta làm vợ. Cô ta vui thích bèntư thông, lại còn tặng tiền bạc cho tôi. Dẫn về nhà, vợ tôi chẳng dung, bị chết.Nay cô ta đã tới, tôi không thể sống nổi nữa”. Các thí sinh ở lều bên cạnh mềmmỏng an ủi. Một lúc sau, nghe lẫm sanh ở trong lều van lơn xin tha mạng. Lâusau, tiếng kêu im bặt. Họ bèn gọi người trông nom lều thi đốt đuốc, thấy lẫm sanhấy dùng sợi tơ đỏ [buộc ở đuôi bút] để treo bút, tự buộc vào cổ mình, đã nghẹtthở mà chết.Nhận định: Sách Nam Lăng Đơn Quế Tịch ghi: “Do tư thông với một ngườinữ, ắt sẽ đến nỗi vào trường thi mà chết. Lại còn ắt khiến gã ấy tự nói nguyên cớTheo lề lối thi cử thuở ấy, thí sinh phải nộp những quyển giấy trắng đã đóng bìa theođúng quy định, trang đầu viết tên tuổi, quê quán v.v… Nhân viên trường thi thu lấy, kiểmxem có đúng quy định hay không, sau đó sẽ đóng dấu vào chỗ giáp trang. Đến hôm thi, sẽphát ra, trả lại cho thí sinh viết bài thi vào đó. Trước khi nộp quyển thi, thí sinh phải kiểmlại, ghi rõ những chữ nào đã sửa vì bị viết sai, thiếu nét, bao nhiêu chữ vì phạm húy màviết bớt nét v.v… để khi giám khảo chấm bài sẽ trình lên chủ khảo, chứng minh bài thi ấydo chính thí sinh viết, không có chuyện tráo bài hay ngụy tạo, cũng như đảm bảo khôngcó chuyện giám khảo vì cảm tình riêng mà sửa chữ trong bài văn. Quyển thi phải lành lặn,không được rách bìa, sứt trang, không được thiếu trang v.v…Thuở trước, bút lông dùng xong thường nhúng nước cho sạch hết mực, rồi treo lên giábút cho ráo nước.gây ra cái chết. Lại còn ắt khiến cho sĩ tử cả trường đều biết nguyên do bị chết.Trời cao hiển thị sự báo ứng do dâm, răn nhắc tột bậc sâu xa, sát sao vậy”.* Vào đời Minh, tại Kinh Khê có hai người chơi với nhau khá thân. Mộtngười giàu có, người kia nghèo túng. Do vợ người nghèo xinh đẹp, gã giàu liềnlập mưu, bảo bạn: “Có một nhà giàu nọ, anh có thể đến đó làm thuê”. [Anh nghèonghe lời, cùng bạn] chuẩn bị thuyền để chở theo vợ cùng đi. Đến Chỉ sơn, [gãgiàu] bảo: “Để vợ anh ở lại trông thuyền, tôi với anh đi trước hỏi thăm”. Dẫn bạnvào rừng, rút rìu giắt sẵn sau lưng chém chết. Hắn giả vờ khóc lóc, xuống núi, bảovợ bạn: “Chồng chị bị cọp vồ chết rồi”. Người vợ khóc ầm lên, theo hắn lên núitìm xác chồng. Hắn dẫn vào chỗ núi sâu, ôm chặt lấy cô ta, đòi thỏa dâm. Ngườivợ không chịu. Chợt có cọp xông ra, cắn gã giàu lôi đi. Người vợ kinh hãi bỏchạy, cho là chồng đã gởi thây trong miệng cọp rồi, buồn, hận khôn khuây! Bỗngthấy một người từ xa khóc lóc đi tới, [hóa ra] người vừa tới ấy chính là chồngmình! Đôi bên kể lể sự tình, chuyển buồn thành vui, quay về.* Ở Dư Hàng có người họ Trương sang Kim Lăng buôn bán, ở trong quántrọ. Có người đàn bà nói mình sống gần đó, tằng tịu với họ Trương. Lâu sau, họTrương nhận thấy láng giềng sống quanh đó không có người đàn bà ấy. Do nghingờ bèn cật vấn, người đàn bà đáp: “Thật ra tôi có chuyện cần nhờ vả, tôi chẳngphải là người. Có một người tên là Dương Xu chẳng phải là người cùng làng vớiông hay sao?” “Đúng vậy!” Người đàn bà giậm chân, nghiến răng nói: “Thằng đóbội bạc lắm! Thiếp chính là kỹ nữ, thuở trẻ dan díu với thằng Dương. Nó hết sứcchiều chuộng thiếp, không gì chẳng chăm sóc hết mực, ước hẹn, thề nguyền sẽđón thiếp về nhà, sống chết cùng nhau. Thiếp trút hết của cải dành dụm đưa chonó, bền lòng giữ mình theo lời hẹn. Đã lâu mà chẳng có tăm hơi gì, nghe nói nóđã lấy người khác rồi! Vì thế, nuốt hận mà chết. Quán trọ này chính là chỗ ở cũcủa thiếp. Muốn đi theo thuyền của ông để xem vợ mới của thằng Dương như thếnào?’ Ông Trương đồng ý. Đã đến nơi, bà ta từ biệt ông Trương, tìm tới nhà họDương. Do mừng sinh nhật, họ Dương tấu nhạc, mở tiệc đãi đằng khách khứa,bỗng chết đột ngột. Bà vợ do hắn cưới cũng mắc bệnh nguy kịch gần chết. ÔngTrương nghe chuyện, hết sức kinh hãi!* Trương An Quốc có tài văn chương, nhưng hạnh kiểm tệ hại. Gian dâmmột cô gái hàng xóm, khiến cho cô ấy chết ngang trái. Về sau, hắn đi thi. Quanchủ khảo thích thú văn tài, toan chọn hắn đỗ đầu. Chợt nghe trên không trung cótiếng quát: “Há có kẻ dâm đãng hại người lại được đỗ đầu bảng à?” Quan chánhchủ khảo bỗng té nhào xuống đất, đến khi tỉnh lại, đứng lên thì thấy quyển bài thiChỉ Sơn là một quả núi thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam.ấy đã bị xé rách tan nát. Sau khi yết bảng, quan chánh chủ khảo bèn gọi An Quốckể chuyện này, An Quốc hổ thẹn mà chết.* Chàng họ La ở Kiến Xương do nhà nghèo, chẳng thể cưới vợ. Mẹ anh tabèn cải giá với ông Giang để có tiền cưới Chương thị. Chàng La thấy mẹ [hy sinhnhư vậy], chẳng nỡ lòng ngủ chung với vợ. Chương thị dò biết bèn tháo trâm cài,bông tai, quần áo đưa cho chồng chuộc mẹ về. Chồng vui mừng, chạy đến nói vớimẹ. Do trời đã tối, bèn ngủ lại. Nào ngờ con trai vợ trước của ông Giang là GiangThật đã lén nghe được, trong đêm giả vờ là chàng La gõ cửa, xông vào nhà, vơvét mọi vật, lại còn đòi ân ái. Chương thị không biết kẻ đó là giả, [Giang Thật]bèn ôm hết [của cải] bỏ đi. Cho đến bình minh, chồng quay về, Chương thị mớibiết đã mắc lừa, xấu hổ, ân hận, bèn treo cổ chết. Chồng sắm sửa quan tài, đồliệm, đưa linh cữu vợ ra ngoại thành. Chợt sấm sét cùng nhau giáng xuống, sétđánh chết một người, tay còn ôm trâm, bông tai, quần áo, quỳ trước quan tài. Lưngviết bốn chữ: “Gian tặc Giang Thật”. Quan tài gỗ vỡ vụn, Chương thị đứng bênđường, thấy chồng bèn hỏi: “Chuyện này là sao?” Thuật rõ mọi chuyện xong, vợchồng dìu nhau trở về. Cha ghẻ là Giang Triều cũng cảm động khóc lóc. Do vậy,mời vợ chồng chàng La về ở chung.* Đời Minh, ở Tấn Giang có Hứa Triệu Hinh, đỗ Cử Nhân năm Mậu Ngọ.Trên đường đến bái yết vị chủ khảo của mình, ngẫu nhiên đi qua một ni am. Domê thích một ni cô trẻ tuổi, bèn cậy thế cưỡng bức làm nhục cô ta. Ngày hôm sau,bỗng tự cắn lưỡi đứt làm hai đoạn mà chết.* Gã X… là người ở Diên Sơn, mê thích sắc đẹp của vợ người hàng xóm,dụ dỗ nhưng cô ta không thuận theo. Nhằm lúc chồng cô ta ngã bệnh, trời đổ mưato, sấm sét ầm ĩ, bèn khoác áo hoa có hai cánh diều, nhảy vào nhà hàng xóm,vung chùy sắt giết chết [người chồng], rồi lại nhảy tường trở ra. Mọi người đềutưởng là sét đánh chết người chồng. Sau đấy, gã đó cậy mai mối xin cưới [ngườivợ góa]. Người vợ do nghèo túng bèn cải giá, vợ chồng ân ái hết mực. Một hôm,vợ sắp xếp rương, thắc mắc quần áo may kiểu gì mà lạ thế. Chồng nhân đó cườicợt, nói rõ chuyện. Vợ giả vờ cười nói, đợi lúc chồng đi vắng, bèn ôm áo cánhdiều lên báo quan. Quan phán tội treo cổ. Ngày xử giảo, sấm sét ầm ĩ, [gã đó] đầumột nơi, thân một nẻo, tứ chi đứt lìa.* Tường sanh Quách Hanh ở Giang Ninh, năm Kỷ Mão vào trường thi. Khichưa yết bảng, người bạn là Dương sinh nói: “Gần đây, tôi làm phán quan cho âmphủ, biết ông đáng lẽ đậu hạng năm mươi bảy. Trong nhà ông có một đứa tớ gái,bị ông cưỡng ép làm tiểu thiếp. Nó uất ức nên đã chết. Nó đã nhiều lần tố cáo ông[dưới cõi âm]. Vì lẽ này, tên ông đã bị gạt bỏ”. Chàng Quách thoạt nghe, khôngtin, đến chừng nhận lại quyển thi, [mới thấy] giám khảo đã xếp [bài văn của mình]vào loại trình lên chủ khảo, mới hối hận vô cùng! Quách Hanh cả đời trung hậu,chỉ vì vô ý chuyện này, cả đời thất vọng!Nhận định: Xét theo Công Quá Cách, “ép tớ gái làm thiếp, phạm ba mươilỗi”. Đó là đặc biệt nói theo Lý, chứ nếu xét theo tình, châm chước thế, sẽ là tộilỗi vô cùng! Bởi lẽ, nam nữ kết hôn, dẫu nghèo hèn đều mong xứng nguyện.Cưỡng ép trở thành thiếp, tức là đã trái với ý nguyện của họ, mà cũng là chuyệnkhó chịu đựng nhất. Thường có những trường hợp vợ trẻ đẹp phải hầu hạ chồnggià khú đế, hoặc người dịu dàng, mềm mỏng gặp [vợ cả] hung tợn, ghen tuông,sẽ ngậm hờn, nuốt oán, uất ức mong chết đi cho rảnh! Kẻ gặp những nỗi khổ ấy,thật là đáng thương! Suy xét nguồn cơn, đều là do một kẻ không thể chế ngự lòngdục mà ra. Trong đám thê thiếp, nói xấu, chửi bới, tranh chấp với nhau, chuyệntrong chốn buồng the, xấu xa, nhơ bẩn không thể che giấu, tai hoạn chẳng phải làmột mối! Con người nếu chẳng phải là chuyện muôn phần bất đắc dĩ, hãy thậntrọng đừng tạo nỗi oan nghiệt vô cùng ấy!* Vương Cần Chánh ở Trừ Dương thông gian với người đàn bà hàng xóm,đã ước hẹn cùng nhau bỏ trốn. Do vậy, bà ta bèn giết chồng. Cần Chánh nghechuyện, sợ quá, liền một mình trốn tới huyện Giang Sơn cách đó bảy mươi dặm,ngỡ là đã có thể thoát họa. Đói bụng, vào quán cơm. Chủ quán dọn cơm cho haingười ăn. Cần Chánh hỏi nguyên do. Chủ quán bảo: “Chẳng lẽ người đầu bù tócrối đi theo ông không phải là người ư?” Cần Chánh kinh hãi, biết là oán quỷ đitheo mình, liền đến cửa quan tự thú. Nam nữ đều phải đền tội.* Ở Dự Chương có một cặp song sanh, tướng mạo và tiếng nói giống hệt nhưnhau. Từ lúc còn ẵm ngửa cho tới lúc ba mươi tuổi, những chuyện gặp gỡ, đượcmất đều y hệt như nhau. Lúc ba mươi mốt tuổi, do đi thi, anh em lên tỉnh. Mộtphụ nữ ở gần đó góa chồng, xinh đẹp, quyến rũ người anh. Người anh nghiêm mặtcự tuyệt, lại còn đem chuyện ấy răn nhắc đứa em. Đứa em giả vờ vâng dạ, nhưnglén lút gian díu với người đàn bà ấy. Thoạt đầu, bà ta chẳng biết đó là người em.Đôi bên tình cảm sâu đậm; do vậy, ước hẹn với bà ta: “Nếu ta thi đậu, ắt sẽ cướinàng”. Đến khi yết bảng, anh đậu, em rớt. Người em lại gạt bà ta: “Đợi ta đỗ ôngnghè xong sẽ cưới nàng”. Lại còn than thở thiếu hụt tiền chi dụng. Bà ta dốc hếttiền bạc dành dụm trao cho. Mùa Xuân, người anh đỗ kỳ thi Đình, bà ta sớm chiềumong ngóng, chẳng thấy tin tức gì, uất ức thành bệnh. Ngầm gởi thư cho ngườianh, [không lâu sau] bà ta chết. Người anh nhận được thư, kinh hãi, vặn hỏi đứaem. Người em cúi đầu thừa nhận đã lừa tình. Năm sau, con trai của người em bịchết, con người anh không sao. Người em khóc lóc không ngừng, hai mắt bỗngmù hẳn! Không lâu sau cũng chết. Người anh quyền cao tước trọng, đông con,lắm cháu, có thể nói là hưởng phước trọn vẹn.Nhận định: Con người thường là khi họa hoạn xảy tới, chẳng thể đổ thừa hếtcho số mạng được! Hãy nên kinh sợ, tự xét hành vi trong thường nhật xem đã tróttạo nỗi oan nghiệt nào mà dẫn đến [nông nỗi] hiện thời! Tự trách sâu xa, sửa lỗiđổi mới, hòng có thể vãn hồi sự trút giận của thần minh. Nếu không, cũng sẽ giốngnhư người em ở Dự Chương đó thôi!* Thư sinh X… ở Duy Dương vừa viết xong một quyển dâm thư, mộng thấythần quở trách. Tỉnh giấc bèn tự hối, liền thôi [không viết nữa]. Về sau, do conthơ, nhà nghèo, vẫn lấy ra đem in. Chẳng lâu sau, mắt mù, tay sanh ghẻ độc, nămngón tay đều co quắp mà chết.* Thi Nại Am viết bộ Thủy Hử, trong ấy, miêu tả những chuyện gian dâm,cướp bóc [sống động] như vẽ. Con cháu ba đời bị câm.* Năm Bính Ngọ (1666) đời Khang Hy nhà Thanh, tại một huyện thuộcDuyện Châu, có Trịnh sinh là người đẹp trai, phong nhã, giỏi văn chương. Mêthích con gái của người cậu vừa đẹp vừa hiền thục, xin cưới; người cậu chẳng chấpthuận, vì đã nhận sính lễ của nhà họ Tiêu ở ấp bên cạnh. Do chú rể bị bệnh, nêncả năm chưa xuất giá. Trịnh sinh mua chuộc tớ gái của cô ấy, lấy được đôi hàidùng khi đi ngủ và túi thơm của cô ta. Trịnh sinh thường giắt theo, khoe với họnội của chàng Tiêu, bảo cô gái ấy và mình có tư tình; ấy là vì muốn lập kế chochàng Tiêu biết đến, ắt sẽ ly hôn. Khi đã bị ly hôn, [cô em họ] bị mang tiếng,chẳng có ai muốn lấy; sau đấy, [Trịnh sinh] sẽ có thể xin cưới được. Chàng Tiêubiết chuyện, nửa tin, nửa ngờ, sai người đến hạch hỏi mẹ cô ta. Cô gái nghe nhữnglời báng bổ, phẫn hận không thể kiềm chế nổi, vung dao sắc tự tử. Cha cô ta kiệnlên quan. Vị chủ ấp là ông X… tính tình công chánh, cương nghị, bắt Trịnh sinhlên tra hỏi, vạch trần sự thật. Trịnh sinh bị phán xử tử.Nhận định: Đời Đường, cô con gái người dì của Nguyên Chẩn là Thôi OanhOanh, vốn là tuyệt thế giai nhân. Chẩn cố công xin cưới, nhưng bà Thôi vốn muốngả [Oanh Oanh] cho cháu là Trịnh Hằng. Chẳng được toại ý, Nguyên Chẩn hếtsức phẫn hận, do vậy, viết bộ Hội Chân Ký để bêu xấu, đội tên Thôi Oanh OanhDo khi xưa phụ nữ Trung Hoa bó chân, nếu tháo vải bó chân ra, chân sẽ bị thốn đaukhông đi lại được. Trước khi ngủ, phải thay vải bó mới, rửa chân, ngâm hương liệu chokhỏi hôi thối, bọc lại, dùng một loại hài mềm riêng để dùng khi cần đi lại trong nhà, khácvới loại hài cứng, thêu thùa công phu dùng để đi ra ngoài. Để giữ cho thân thể thơm tho,nữ nhân cũng hay đeo những chiếc túi bằng lụa gấm, thêu thùa cầu kỳ, đựng hương liệu.Ngay cả nam giới thuộc các dòng họ quyền quý cũng hay đeo túi thơm ngang thắt lưng.Khi một cô gái có tình ý với ai thường đích thân thêu túi thơm tặng cho người ấy.Hội Chân Ký còn gọi là Thôi Oanh Oanh Truyện, mô tả mối tình giữa Trương Quân Thụyvà Thôi Oanh Oanh. Theo bộ truyện đó, Thôi Oanh Oanh do theo mẹ đưa quan tài của chavề quê, đã ở nhờ dãy sương phòng phía Tây chùa Phổ Cứu, đã gian díu với Trương Quânviết những bài thơ xướng họa lưu truyền trong cõi đời, khiến cho ngọc trắng khôngtỳ vết bị lấm lem muôn đời. So với Trịnh sinh, tội ấy càng nặng hơn nữa. Về sau,Nguyên Chẩn mắc quả báo lửa sét đốt thây, há cũng chẳng thích đáng ư?* Một thư sinh ở Giang Nam, văn chương hay khéo, nhưng tính chuyên thíchbàn chuyện buồng the của kẻ khác. Năm Kỷ Dậu đi thi Hội, đến khi vào tamtrường, lúc được ban đuốc, bỗng dưng thấy trên quyển văn của mình có bốnchữ “háo đàm khuê khổn” (ham bàn chuyện buồng the). Chàng vội vàng lấy tayxóa đi. Khi kiểm lại, sửa lỗi, thấy phía sau quyển thi đã bị chà nát. Khi khảo quandùng bút son chấm bài, thấy bảy bài văn do anh ta đã viết hết sức hay khéo, tínhlấy anh ta đỗ đầu, nhưng vì không có bài nộp cho vòng thi thứ ba, chẳng thể chấmđậu. Từ đấy, chàng thư sinh suốt đời lận đận [chẳng đỗ đạt gì].* Cuối đời Minh, ở vùng Ngô Hạ (Tô Châu), có Tần sinh học giỏi, lắm tài,giỏi nhất là sáng tác thi từ, nhạc phủ. Anh ta là một kẻ hết sức khinh bạc, chỉthích châm biếm, nhạo báng cõi đời. Hễ thấy kẻ nào dung mạo, hình dáng xấu xíbèn chẳng chịu nổi, ngay lập tức làm một bài thơ [chế giễu] ngay trước mặt [ngườiđó]. Hễ nghe kẻ khác làm chuyện gì đáng cười, lọt vào tai anh ta là đã có ngaymột khúc ca [nhạo báng]. Một người bạn thân của anh ta đút lót để được vàotrường huyện, anh ta bèn làm bài thơ “Du Tường Thi” (thơ nhập học trườnghuyện) gồm một trăm vần để chúc mừng. Nhà hàng xóm có chuyện mèo chuột,anh ta liền tặng cho mười bài thơ Chim Hoàng Anh, xiên xỏ bóng gió tột bậc haykhéo, miệng đời rao truyền thấu khắp xa gần. Do vậy, nhiều lượt bị khốn đốn bởinắm đấm, lại còn bị thưa kiện lên quan, gần như bị tước sạch danh vị, vẫn trọnchẳng thay đổi. Đến tuổi xế chiều, bỗng bị sốt rét phát cuồng, tự ăn phân củachính mình, cầm dao tự cắt lưỡi. Người nhà giằng lấy dao, xiềng trong buồngtrống. Tìm dao không được, bèn nhai lưỡi nát bét phun ra. Mùi thối lan ra tậnThụy, ăn nằm với nhau trước khi cưới hỏi v.v… Đến đời Nguyên, Vương Thực Phủ biênsoạn thành tuồng hát có tên là Tây Sương Ký.Do những buổi thi kéo dài từ sáng đến tối, thí sinh phải dựng lều trong khu vực trườngthi, đến tối được cấp đèn đuốc để tiếp tục viết bài cho đến khi nghe trống chấm dứt buổithi và quyển thi được thu hồi.Nhạc Phủ (樂府) là một loại thơ, thuộc vào trong ba hình thức thơ cổ điển của Trung Hoa(tức Cổ Thi, Cận Thể Thi, và Nhạc Phủ). Nhạc Phủ vốn là loại thơ có thể phổ nhạc để cahát. Vì thế, sau này bất cứ loại thi ca nào có thể phổ nhạc đều có thể gọi là Nhạc Phủ. NhạcPhủ là danh xưng từ đời Tần để chỉ cơ quan quản lý âm nhạc của triều đình. Các triều đạisau gọi cơ quan ấy là Nhạc Phủ Lệnh hoặc Nhạc Phủ Thự. Điểm đặc sắc của lối Nhạc Phủlà chịu ảnh hưởng các bài thơ trong kinh Thi, chú trọng mô tả hiện thực, có âm điệu dudương, văn tự uyển chuyển, chú trọng miêu tả khắc họa và tự sự, dần dần diễn biến thànhnhiều loại như ca, hành, ngâm, khúc, nhạc, lộng, tháo, dẫn v.v… Những tác phẩm nổi tiếngnhư Lệ Nhân Hành, Binh Xa Hành của Đỗ Phủ, Trường Hận Ca, Tỳ Bà Hành của Bạch CưDị được coi là tiêu biểu cho lối tân nhạc phủ.ngoài cửa. Sau đó, từ khe cửa sổ trông ra, thấy trong sân có cái búa chẻ củi, bèndũng mãnh phá vỡ cửa sổ thoát ra, vớ lấy búa tự chém chính mình đến chết!Nhận định: Trong bộ Giác Thế có nói: “Với tài năng ấy, Tần sinh [hô hàokhiến cho] dân chúng tuân theo phong tục tốt đẹp, há khó khăn gì? Sao lại khiếncho cái tài đó trở thành công cụ để giết mình? Khác gì Tùy Hầu dùng minh châuđể ném chim sẻ, dùng gươm Thái A để đốn củi!” Gần đây, có một thư sinh, có tàilạ, tự cho rằng ắt sẽ thi đậu, nhưng ưa dùng những giáo huấn trong kinh sách [củathánh hiền] để châm chọc. Về sau, [đi thi] nhiều lần được chấm điểm cao, nhưngcứ vào vòng thi sau bèn có chỗ viết sai, luôn luôn bị trượt. Đấy chính là lẽ báoứng vì đã vũ nhục lời lẽ thánh hiền! Những kẻ có tài trong cõi đời thường phạmlỗi này mà chẳng biết sai trái. Ôi! Đọc sách như vậy, có khác gì kép hát diễn tuồngư? Hình tượng tư văn đã bị hạng người ấy vùi xuống tận đất mất rồi!* Lý Thúc Khanh luôn liêm khiết, cẩn thận; đồng liêu là Tôn Nham ghenghét, bịa chuyện rêu rao cùng mọi người: “Thúc Khanh chỉ được cái danh suông!Theo như tôi thấy, hắn chẳng bằng chó, lợn!” Nếu có ai hỏi vì sao nói như vậy,hắn ta đáp: “Thúc Khanh ăn nằm với em gái của chính mình, còn đáng làm ngườiư?” Do vậy, [lời ong tiếng ve] đồn đại ồn ào xa gần. Thúc Khanh muốn biện minh,nhưng chẳng tiện mở miệng. Nếu chẳng muốn nói rõ, phẫn hận, giận dữ khó chịunổi. Vì thế, ôm nỗi uất ức mà chết. Em gái ông ta nghe tin, biết chuyện, hết sứckinh hoảng, phẫn hận, cũng treo cổ tự tử. Chẳng được mấy hôm, trời nổi giông tố,sét đánh Tôn Nham chết tươi, quăng thây đến tận cửa nhà Thúc Khanh. Đến khiđem chôn, sét lại đánh xuống mồ hắn!Nhận định: Đây là kẻ có ý niệm bịa chuyện ô nhục, khinh miệt người khác,cho nên mắc phải quả báo nặng nề như vậy. Dẫu không có tâm châm biếm, cũngtrọn chớ nên! Vào năm Nhâm Tý, tại trường thi Chiết Giang, có một phụ nữ bướcvào khu vực đặt lều thi, vừa đi vừa hét to: “Vương Nhị ở Đông Dương”. Cả trườngthi hoảng hồn, dùng đèn đuốc soi, chẳng thấy bà ta đâu cả. Do vậy, tìm kiếm trongdãy lều thi, quả thật có một người họ Vương đứng hàng thứ hai. Mọi người kể rõnguyên do [tìm kiếm], rồi vặn hỏi nguyên nhân. Người ấy suy nghĩ rất lâu, nói:“Mấy năm trước, họ hàng tụ tập chuyện gẫu đùa cợt. Ngẫu nhiên nói tới một bàgóa thủ tiết trong thôn, bèn bảo [thủ tiết] khó tin quá! Bà ta nghe chuyện, phẫnhận chết đi, chắc là chuyện ấy!” Do vậy, anh ta sợ hãi, không dám nộp quyển thi,thâu thập hành lý ra khỏi lều thi, [bỗng dưng], vấp ngã nơi bậc thềm, bị thương ởtrán, đến sáng bèn chết. Có thể thấy tai hại của sự đùa bỡn, châm chọc. Đối vớiTư văn (斯文) là từ ngữ dùng để chỉ người có học thức, có sự hàm dưỡng, lễ độ, biết tôntrọng người khác. Hiểu theo nghĩa hẹp, từ ngữ này được dùng để chỉ giới nho sĩ.những chuyện liên quan đến danh tiết của người khác, trọn chẳng thể coi thườngthốt ra lời được!* Lam Nhuận Ngọc tuổi chớm hai mươi, rất mực tài hoa, phong thái thanhtú. Các bạn học đều cho rằng anh ta sẽ đỗ đạt, vinh hiển. Gần chỗ anh ta ở là nhàcủa một vị Thượng Thư nọ. Vị Thượng Thư có đứa con gái đã hứa hôn, nhưngchưa gả. Cô ta tài sắc nức tiếng một thuở. Có lần, ngẫu nhiên Lam sinh thấy cô talên xe; trở về, khát khao mơ tưởng. Một hôm, tản bộ nơi vườn sau, nghe cáchtường có tiếng con gái, trèo lên dòm trộm, biết đó là người [mình đã từng thấy]trong xe, bèn ngấm ngầm khoét nửa viên gạch ở chân tường để hằng ngày ngắmnghía. Được nửa năm, cô ta về nhà chồng. Chàng Lam không còn cách nào nhìntrộm được nữa! Buồn bã, thất vọng quá sức. Do vậy, viết bài từ Trường TươngTư, bị một người bạn đọc được. [Người ấy] liền đốt ngay, lại căn dặn [Lam sinh]đừng nói với ai, vì sẽ gây tổn hại rất lớn cho đức hạnh. Lam sinh cười chê lời ấylà vớ vẩn. Về sau, vào trường thi, đêm mộng thấy bị một vị thần khoét mắt. Chàngta nằm ngủ mà mắt rất đau, hai tròng mắt như bị kim đâm, chẳng thể mở mắtđược. Do vậy, phải để giấy trắng. Trở về nhà, vẫn không ngừng đau, rồi mù cảhai mắt. Đến khi yết bảng, người bạn thiêu hủy bài từ ấy được xếp đỗ đầu.* Công tử X… ở đất Ngô, do muốn gian dâm một bà góa, bèn cùng với gãbạn hợp ý bày mưu tính kế. Người bạn liền bày một kế, ước hẹn sẽ thực hiện vàongày nào đó. Đến ngày ấy, cha hắn mộng thấy một vị thần mặc áo đỏ bảo: “Contrai ngươi lẽ ra đỗ đạt; do có tâm thuật bại hoại kẻ khác, công danh bị tước sạch.Thằng bạn kia vốn nghèo hèn, lại vì người khác bày mưu xấu xa, ắt sẽ bị cắt từngtấc ruột”. Ông bố kinh hãi, tỉnh giấc, tới ngay thư phòng, quả nhiên nghe tin gãbạn ấy rên siết đau bụng rồi chết. Công tử cũng dần dần phát cuồng, đầu bù tócrối lang thang khắp phố phường, trọn chẳng thể cứu chữa!* Có người họ Hoàng Phủ ở Chiết Giang, đậu Tiến Sĩ dưới đời Càn Long.Sau khi bị bãi quan, bèn làm chủ giảng tại thư viện Lệ Trạch. Về sau, chỉ có haivợ chồng già [sống cô quạnh], chết trong nghèo túng. Ông ta thường nói với ngườikhác: “Khi ta làm Tri Huyện ở huyện nọ, có đứa môn sinh là X… có tài nhưng vôhạnh. Sau khi đậu kỳ thi Hương, nó chê người vợ đã đính hôn [nhưng chưa cưới]nghèo hèn. Nhằm lúc cô ta mắc bệnh cổ trướng, nó vu khống cô ta chửa hoang,thưa lên tôi, xin ly hôn. Khi đó, tôi xử oan cô ta, chẳng cho cô ta biện bạch. Cô tarút dao tự mổ bụng [minh oan]. Chuyện được tâu lên trên, thằng học trò ấy phảiđền tội, mà tôi cũng bị bãi chức. Tôi chỉ có một đứa con, đã từng thi đậu, nào ngờgiữa ban ngày, thấy nữ quỷ ấy hiện ra, chết tươi! Nay vợ chồng tôi già cả, khôngnơi nương cậy, mắt sắp thấy chính mình trở thành quỷ tha hương, không ai cúngtế! Quả báo cũng thảm khốc thay!”Hối lỗi án (những câu chuyện hối lỗi)* Vào đời Minh, Hồng Đảo một hôm đột ngột chết đi, hoảng hốt thấy mộtngười áo xanh dẫn tới âm phủ. Họ Hồng hỏi về chuyện ăn lộc của mình trong mộtđời sẽ như thế nào? Người áo xanh lấy từ trong tay áo một quyển sổ to cho ôngHồng xem. [Ông ta thấy] dưới phần ghi tên họ của chính mình, chữ ghi [chi chít]nhỏ như muỗi, chẳng thể đọc hết. Phía sau ghi chú: “Đáng lẽ được làm Tham TriChánh Sự, nhưng do ngày… tháng… năm đã gian dâm với cô gái chưa chồng tênlà…, bị giáng xuống làm Bí Các Tu Soạn Chuyển Vận Phó Sứ”. Ông Hồng rùngmình, ứa nước mắt, hỏi: “Làm thế nào đây?” Người áo xanh nói: “Chỉ nên nỗ lựclàm lành thì được rồi”. Trong chốc lát, tới trước một con suối lớn, người áo xanhđẩy họ Hồng ngã xuống. Ông Hồng hoảng hốt tỉnh lại, thì ra đã chết ba ngày. Dotim còn ấm, nên [người thân] chưa khâm liệm. Ông bèn thống thiết tự hối lỗi, tậnlực làm lành. Về sau, ông do thấy được bổ làm chức Bí Các Tu Soạn Tào Vận củaLưỡng Chiết [ứng hợp với điều] đã được đoán trước, hết sức sợ hãi. Sau đấy,chẳng có [chuyện bất ngờ] gì khác, làm quan tới chức Đoan Minh Điện Học Sĩ,hưởng thượng thọ rồi mất. Đấy chính là báo ứng do nỗ lực hối lỗi vậy!Nhận định: Người đời thấy có kẻ phạm lỗi ấy mà vẫn phú quý, bèn ngờ cảmứng chẳng có căn cứ! Nào có biết, lẽ ra ông Hồng làm tới chức Tham Tri ChánhSự, bị giáng xuống chức Bí Các Tu Soạn! Lại chẳng biết ông Hồng nếu chẳng tậnlực hối lỗi, há có chuyển biến ngấm ngầm [thăng chức cao hơn] ư? Hãy cẩn thận,chớ sanh tâm không kính tín. Nếu cam lòng như Lý Đăng gạt bỏ Trạng Nguyên,Tể Tướng, vẫn khăng khăng mừng vì đã đậu Giải Nguyên ư?* Đời Thanh, ở Hán Dương có một chư sanh có tài, nổi tiếng, nhưng đi thinhiều lần chẳng đậu. Một người bạn bèn vì ông ta cầu cơ thưa hỏi. Thần giáng cơ:“Thư sinh ấy đáng lẽ đỗ đạt; do vì lúc tuổi trẻ, ngồi dạy học tại nhà nọ, tư thôngvới một đứa tớ gái, chẳng thể nào mong mỏi đỗ đạt được”. Thư sinh nghe nói kinhsợ; do vậy, biên tập bộ Giới Dâm Công Quá Cách, lại còn chú giải, ghi chép khánhiều câu chuyện thật sự sau mỗi đoạn, quyên góp tiền bạc để ấn hành, biếu tặng.Tới khoa thi năm Bính Tý đời Khang Hy (1696), bèn thi đậu, ai nấy đều cho làbáo ứng do đã sửa lỗi vậy.* Đời Minh, ông Hạng Hy Hiến vốn có tên là Đức Phân. Nằm mộng thấy đỗkỳ thi Hương năm Quý Mão, do ô nhục hai đứa tớ gái nhỏ tuổi, bị thần gạt bỏkhoa cử, bèn thề tránh tà dâm, nỗ lực làm lành hòng chuộc lỗi trước. Về sau, ôngmộng thấy đến một nơi, trông thấy có một tờ giấy vàng, nơi dòng thứ tám ghi họLưỡng Chiết gọi đủ là Lưỡng Chiết Lộ, là một đơn vị hành chánh từ thời Bắc Tống, dựatheo danh xưng Chiết Đông Lộ và Chiết Tây Lộ thời Đường. “Lộ” (路) là một khu vực hànhchánh tương đương với tỉnh hiện thời. Lưỡng Chiết bao gồm tỉnh Chiết Giang hiện tại.Hạng, chữ chính giữa không rõ ràng, chữ cuối cùng là Nguyên. Có người bên cạnhnói: “Đấy chính là thứ tự trên bảng trời của ngươi! Do ngươi gần đây đổi hạnh,nên lại đạt được thứ hạng ấy”. Do vậy, ông bèn đổi tên là Mộng Nguyên. Khoathi Hương năm Nhâm Tý, ông đỗ hạng hai mươi chín tại phủ Thuận Thiên. ThiHội năm Kỷ Mùi, đỗ hạng hai. Rất nghi thứ hạng trong mộng sai lầm. Tới khi thiĐình, đỗ thứ năm trong hàng Nhị Giáp. Ông mới hiểu thứ tự ấy phù hợp với kếtquả thi Đình, đúng là hạng tám. Bởi lẽ, kết quả thi Hương và thi Hội đều dùnggiấy trắng [để yết bảng], chỉ riêng có bảng kết quả thi Đình là dùng giấy vàng!Nhận định: Do mộng mà tỉnh ngộ, thống thiết tự sửa đổi, vẫn là người cóphước. Nếu không, công danh đã bị tước sạch mất rồi; há còn chiếm được thứhạng đỗ đạt nữa ư? Có thể biết, đạo trời giáng họa cho kẻ dâm, chẳng giáng tộingười hối lỗi. Kẻ có chí chẳng vì trót sa chân bèn bảo là “không thể chuyển dờiđược!”* Giả Nhân đã năm mươi tuổi, không con. Đêm mộng thấy mình đến mộttòa phủ đệ, biển đề Sanh Dục Từ. Do vậy, Giả Nhân cầu khẩn có con nối dõi. Chủnhân lấy sổ sách cho xem, bảo: “Ngươi đã từng gian dâm với vợ kẻ khác, muốncầu con, chẳng thể được”. Giả Nhân van xin: “Tiểu dân vô tri, xin dung cho chuộctội”. Thần nói: “Ngươi đã hối lỗi, hãy khuyên mười người không dâm thì mới cóthể chuộc tội. Nếu khuyến hóa nhiều người hơn, ắt sẽ có con”. Giả Nhân tỉnh giấc,thống thiết cải hối. Do vậy, sốt sắng khuyên người đời, cảm hóa rất nhiều. Về sau,sanh hai con.* Năm Tân Mão, trước hôm bắt đầu khoa thi tại Chiết Giang, có một ngườinằm mộng thấy thần thánh tụ hội để xét đoán những người sẽ thi đậu, [quyết định]người sẽ đỗ đầu tên là Chung Lãng. Có một phụ nữ kêu oan. Vị thần ngồi chínhgiữa bảo: “Như vậy thì hắn không thể đậu được!” Do vậy, dò xét để tìm ngườikhác điền vào chỗ đó. Người bên cạnh đáp: “Vậy thì lấy thằng bé con thế vào”.Người ấy tỉnh giấc, kể lại giấc mộng với ông Chung. Vì thế, dò hỏi cặn kẽ ôngChung về ngọn ngành. Thì ra trong nhà ấy có một đứa tớ gái mang thai, do bà chủ(vợ ông Chung) chẳng dung, đem dìm nước cho chết. Họ Chung thường vì chuyệnnày mà tâm bất an. Nghe kể chuyện nằm mộng, hết sức kinh hãi. Quả nhiên, khoaấy họ Chung thi rớt, Dư Tuân đậu Trạng Nguyên, nói “thằng bé con” (Nhụ Tử)chính là tên tự của Tuân vậy. Chẳng lâu sau, vợ ông Chung bị bệnh chết. ÔngTrong kết quả thi Đình, ba người đỗ đầu được gọi là Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ, gồm TrạngNguyên, Bảng Nhãn và Thám Hoa, những người đỗ kế đó được chia thành hai loại là ĐệNhị Giáp và Đệ Tam Giáp. Ông Hạng đỗ thứ năm trong Nhị Giáp, tức là sau ba người trongĐệ Nhất Giáp và bốn người trong Đệ Nhị Giáp, cho nên đúng là đậu thứ tám.Chung càng thêm sợ hãi; do vậy, tận lực làm lành chẳng lười nhác. Khoa thi sau,nhằm năm Giáp Ngọ, bèn đỗ Giải Nguyên.* Ông Trương ở Hoa Đình thuở trẻ phạm tà dâm. Về sau, sanh hai đứa conđều chẳng nuôi được. [Chính ông ta] lại bị bệnh lao, nhiều năm chẳng khỏi. Ngẫunhiên xem các câu chuyện trong bộ Đan Quế Tịch, thấy quả báo do dâm dụcrành rành, hối hận khôn xiết, bèn đối trước thần thề: “Vĩnh viễn kiêng tà dâm”.Lại còn in Âm Chất Văn thí tặng rộng rãi, căn bệnh ấy liền lành. Trong vòng mấynăm, sanh liên tiếp ba đứa con.* Vào đời Minh, chàng họ Điền phong thái tuấn nhã. Trong làng, có nhiềuphụ nữ quyến rũ, dan díu, bèn lánh sang chùa Nam Sơn ở gần đó để đọc sách.Gần chùa cũng có người đến [quyến rũ], trong lòng họ Điền biết là sai trái, nhưngchẳng nỡ cắt đứt chuyện ong bướm. Thoạt đầu, ông thường nằm mộng thấy mộtvị thần hết sức lùn nhỏ. Sau đó, vị thần ấy hiện thân vào ban ngày, bảo: “Ngươivốn có phước lớn, lẽ ra làm quan Ngự Sử, do ong bướm đa tình, công danh đã bịtước sạch. Thượng Đế sai ta giám sát ngươi. Nếu từ rày sửa đổi, vẫn có thể chẳngđánh mất công danh”. Ông bèn hoảng nhiên hối cải; về sau, quả nhiên thi đậu.* Tào Trĩ Thao đỗ Tiến Sĩ trong đời Sùng Trinh nhà Minh. Lúc còn là chưsanh, đã tư thông với một người đàn bà hàng xóm. Chồng cô ta biết chuyện, muốngiết chết, giả vờ nói: “Ngày mai ta sẽ đi xa, vài hôm mới về”. Vợ nghe nói mừnglắm, ngỡ là thật, liền hẹn hò Trĩ Thao đến nhà. Ngày hôm ấy, nhằm đúng kỳ hẹncác bạn văn họp mặt, từ sáng sớm, bạn bè đã đến lôi kéo Trĩ Thao. Trĩ Thao từchối, bạn bè biết rõ nguyên do, cưỡng ép đến chỗ họp mặt bàn luận thơ văn. Bạnbè nói với vị chủ trì cuộc họp mặt: “Hôm nay viết văn, phải chiếu theo cách thứcviết trong trường thi Hội. Tiệc đêm, ắt phải uống say khướt mới về. Nếu chẳngtuân theo quy ước, sẽ bị phạt”, lại bảo người chủ trì khóa chặt cửa nẻo, các thưsinh chẳng được tự tiện ra vào. Trĩ Thao hết sức bồn chồn, bất đắc dĩ, ngoáy bútcho xong bài văn, muốn về trước. Các bạn ồn ào: “Có hẹn trước à? Về gấp vậy?”Đến tối, [trong khi] uống rượu, Trĩ Thao có tâm sự, cố ý uống ít. Các bạn ép phảiuống, [không uống], sẽ trừng phạt nghiêm khắc. Trĩ Thao say mèm, các bạn đưavề, không thể đến chỗ hẹn được! Người đàn bà hàng xóm chờ Trĩ Thao đã lâu, tựacửa trông ngóng. Có gã vô lại biết người đàn bà ấy quen thói lăng nhăng, thấy bàta tựa cửa chờ đợi, ắt có kẻ ước hẹn chẳng tới, bèn ve vãn, bà ta cũng chẳng cựĐan Quế Tịch chính là tên gọi chung những sách chú giải bài Văn Xương Đế Quân ÂmChất Văn. Bài Âm Chất Văn rất ngắn, nhưng sách chú giải đặc biệt phong phú, do [bài vănấy] có tác dụng khuyến thiện rất mạnh, nên rất được Phật môn Trung Hoa coi trọng. Sáchchú giải nổi tiếng nhất là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn Quảng Nghĩa. Sách này đãđược ông Châu An Sĩ (Châu Mộng Nhan) rút gọn, tạo thành quyển thứ nhất trong bộ An SĩToàn Thư. Mức độ nổi tiếng của thiện thư này chẳng kém Thái Thượng Cảm Ứng Thiên.tuyệt. Người chồng nấp sẵn, liếc thấy, cầm rìu giết chết hắn và giết luôn mụ vợ.Ngày hôm sau, Trĩ Thao nghe chuyện ấy, bèn nhờ các bạn làm chứng, thề vớithần minh, thề sẽ làm lành bù lỗi, trọn chẳng đi theo đường tà nữa. Mấy năm sau,thi đỗ Tiến Sĩ. Thuở ấy, Trĩ Thao đang sống mà đáng chết, lẽ ra phải chết màđược sống, chỉ trong đường tơ kẽ tóc, là do nhờ bạn lành cứu vớt. Gã vô lại kia dothấy có thể làm chuyện dâm dục mà lao vào, quên bẵng mối họa ẩn tàng, trongnháy mắt bị chết dưới lưỡi rìu. Ngạn ngữ có câu: “Gian tất sát” (Gian dâm ắt bịgiết), đúng thay!* Trương Ninh tuổi già không con, đến cầu đảo ở miếu thờ của gia tộc, thưa:“Ninh tôi đã tạo nên đầu mối tội lỗi nào mà đến nỗi dứt mất dòng dõi của tổ tiên?”Một người thiếp ở bên cạnh nói: “Nếu ông chẳng làm lỡ làng cuộc đời chúng tôi,đó chính là âm chất”. Trương Ninh hoảng sợ, tỉnh ngộ, xét hỏi [những tiểu thiếp]xem người nào chẳng muốn ở lại, ngay hôm ấy, cho mấy người đi lấy chồng. Nămsau, bèn sanh được một trai.* Thôi Thư Nhân ở Thượng Hải đã từng thuê người vẽ mười mấy bức tranhkhiêu dâm, [mỗi bức vẽ] đều mô tả sự dâm đãng tột bậc. Về sau, bị sốt rét khôngngừng. Mỗi lần lên cơn sốt dữ dội, đều thấy đàn ông, đàn bà xinh đẹp mười mấyngười, toàn là trần truồng, lõa lồ, bị hai quỷ sứ kẹp lấy, mổ bụng, rút ruột, máutung tóe đầy đất. Kế đó, đến phiên họ Thôi [bị quỷ hành hình], gào thét đau đớn,[tự mình] nói tường tận nguyên do, cả nhà đều nghe. Họ Thôi tỉnh ngộ, vội vã đốtđi, bệnh bèn được lành.* Triệu Nham Sĩ thuở trẻ từng phạm sắc giới, dần dần thân hình yếu đuối,còm cõi, thân thể như bộ xương khô, gần như chẳng còn mong sống được nữa.Chợt đọc bộ Bất Khả Lục do ông Tạ Hán Vân in, bất giác mồ hôi đẫm lưng, thốngthiết sửa đổi lỗi xưa, và thỉnh bản in ấy, bỏ tiền ra ấn tống. Sau đấy, tinh thần dầndần khá hơn, sanh liên tiếp sáu đứa con.* Trong niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, có một chàng thư sinh nọ, láng giềngở phía Đông có một phụ nữ hết sức xinh đẹp, đã nhiều lượt mày đi mắt lại. Mộthôm, thừa dịp chồng sang nơi khác, bà ta bèn khoét tường, chèo kéo chàng ta.Chàng ta cũng động tâm, hỏi từ đâu tới? Bà ta cười ghẹo: “Chàng là người đọcsách, há chẳng nhớ câu ‘du đông gia tường’ (vượt tường phía Đông) ư?” Chàngbắc thang trèo lên, chợt suy nghĩ lại: “Có thể lừa người, chẳng thể lừa trời”. Bèntrèo xuống. Bà ta lại đi đến chỗ cũ (chỗ tường đã bị khoét) nũng nịu quyến rũ.Chàng lại động tình, lại trèo lên thang. Đã ngồi ở đầu tường, sắp nhảy sang, lạinghĩ: “Trọn chẳng thể lừa dối trời”, mau chóng trở xuống, đóng cửa, bỏ đi. Nămsau, do thi Hương, chàng lên miền Bắc. Quan giám khảo vào tối hôm mở trườngthi, đốt đuốc ngồi một mình, bỗng nghe bên tai có tiếng nói: “Trạng Nguyên chínhlà chàng cưỡi tường”. Sau khi đã yết bảng, bèn dò hỏi, mới hiểu rõ chuyện trướckia.* Năm Nhâm Tý (1612) đời Vạn Lịch nhà Minh, Trương Vỹ ở Vũ Tấn cùngchàng thư sinh X… sang Nam Kinh đi thi. Đêm đến quán trọ, chủ nhân mộngthấy đón tiếp thiên bảng mà Giải Nguyên chính là chàng thư sinh X… bèn kể lạivới thư sinh đó. Chàng ta dương dương đắc ý. Chủ nhân có hai cô con gái ở trênlầu, vừa đến tuổi cập kê, nghe nói bèn động tâm, sai tớ gái chèo kéo chàng, từ trênlầu thả tấm vải xuống để làm thang. Chàng ta lôi kéo Trương Vỹ cùng trèo lên.Nửa chừng, Trương Vỹ bỗng tỉnh ngộ, nói: “Ta đi thi, sao lại làm chuyện tổn đứcnày?”, vội vàng tụt xuống. Chàng thư sinh kia vẫn tiếp tục trèo lên. Tối hôm ấy,chủ trọ lại mộng thấy bảng trời, Giải Nguyên đã đổi thành tên Trương Vỹ, hết sứckinh hãi, kể lại với chàng thư sinh ấy, lại còn cật vấn gần đây đã làm chuyện gì.Chàng ta đỏ mặt, không trả lời được. Khi yết bảng, quả nhiên như vậy. Chàng thưsinh ấy hết sức hổ thẹn, về sau nghèo hèn, uất ức mà chết.Nhận định: Xét ra, Trương sinh và người cưỡi tường đều tỉnh ngộ ngay khiấy. So ra, càng tốt đẹp hơn những kẻ đã từng phạm rồi sau đó mới kiêng dè. Chođến lúc ấy, nếu chẳng bừng tỉnh, không chỉ là mất sạch công danh vốn nên có, màcòn đọa nhập biển khổ vô biên. Đáng sợ thay!* Hoàng Sơn Cốc đời Tống thích những ca từ diễm tình, thường đến thămViên Thông Tú thiền sư. Tú thiền sư quở trách: “Bậc đại trượng phu sẵn tài bútmực, cam tâm làm chuyện này ư?” Do khi ấy, Tú thiền sư vừa răn nhắc Lý BáThời về chuyện vẽ ngựa. Sơn Cốc cười nói: “Chẳng lẽ tôi cũng sẽ sanh trongbụng ngựa ư?” Tú thiền sư bảo: “Bá Thời nghĩ tưởng ngựa, bất quá mình ông tađọa lạc. Ông dùng lời lẽ diễm tình khuấy động dâm tâm của mọi người trong thiênhạ, không chỉ là sanh trong bụng ngựa, tôi sợ ông sẽ bị đọa địa ngục vậy”. SơnCốc hoảng sợ, hổ thẹn, từ tạ. Từ đấy, thôi không viết nữa.* Tiền Đại Kinh ở Tứ Xuyên, phong tư, thần thái tuấn tú, hễ hạ bút bèn viếtngàn lời. Mười bảy tuổi đã vào trường huyện, nhiều lượt đi thi [nhưng chẳng đậu].Đến khoa thi năm Canh Tý, chàng cầu đảo Văn Xương Đế Quân. Đêm mộng thấyđồng tử áo xanh dẫn đến trước Đế Quân. Ngài sai thuộc hạ tra sổ, thấy chép: “TiềnĐại Kinh hai mươi tuổi đậu thứ hai trong kỳ thi Hương. Đỗ liên tiếp, đỗ TrạngNguyên đứng đầu thiên hạ. Làm quan tới cấp nhị phẩm. Thọ bảy mươi ba tuổi.Do đã soạn ba bộ dâm thư, bị gạt tên [khỏi sổ quan lộc], tuổi thọ cũng không đượcLý Bá Thời là một họa gia nổi tiếng về tài vẽ ngựa thời ấy. Ông say mê ngựa đến nỗi vẽđi, vẽ lại không chán. Lúc nào rảnh rỗi đều ngắm nghía ngựa để tìm ra cách vẽ ấn tượngnhất. Thiền sư Viên Thông Pháp Tú chùa Pháp Vân đã khuyên can: “Ông luôn nghĩ đếnngựa, chỉ sợ thân sau sẽ đọa lạc trong bụng ngựa”.dài lâu như vậy”. Đế Quân khuyên dụ: “Ngươi có lòng trung hậu, lại chẳng thiếuhiếu hữu. Hiềm rằng đã soạn dâm thư, khiến cho nam nữ bại hoại thanh danh,chôn vùi tiết hạnh. Nếu không do đời trước gieo đức rộng nhiều, đã bị phán tộiđọa địa ngục!” Đại Kinh bèn lập trọng thệ, gặp ai cũng khuyên răn, gặp dâm thưliền đốt sạch. Về sau, do đỗ kỳ thi Minh Kinh, sống đến sáu mươi hai tuổi bènmất.Đồng thiện dưỡng sanh* Tạ Hán Vân ở Vân Gian mắc bệnh trầm kha từ bé. Do vậy nghĩ: Trong cácác nghiệp, chỉ có sắc là dễ phạm nhất, bèn trùng đính bộ Bất Khả Lục do Phùngthái sử ở Phồn Dương biên tập rồi đem khắc in để lưu truyền rộng rãi. Khi bản invừa được khắc xong, bệnh đã hết sạch. Về sau, con cháu đều nổi danh một thời,như Tinh Môn, Hà Hiên, Thể Tam v.v… nối tiếp nhau đỗ đạt. Đúng là nếp nhàthư hương chẳng bị đoạn dứt.* Từ Tín Thiện và Dương Hoằng là bạn thân, đi thi, cùng ở trọ một chỗ, gặpmột vị cao tăng xem tướng bảo: “Ông Dương sẽ hết sức vinh hiển, ông Từ sẽnghèo nàn”. Ban đêm, ông Dương ngẫu nhiên thấy trong chỗ trọ có một cô gáichưa chồng xinh đẹp, mưu tính dùng quà cáp hậu hĩnh để mong thỏa dâm, ôngTừ dùng lời lẽ nghiêm khắc tận lực ngăn trở. Hôm sau, vị Tăng gặp lại ông Từ,hết sức kinh hãi nói: “Mới qua một đêm bèn có dấu vết Âm Chất nổi lên, đổi từhèn thành quý, sẽ hết sức vinh hiển”. Lại xem tướng ông Dương, Sư bảo: “Khísắc khác hẳn, chẳng bằng hôm qua. Vì thế, sẽ cùng với ông Từ vinh hiển, nhưngthứ tự [đỗ đạt] hơi kém hơn ông Từ”. Yết bảng đúng như vậy.* Vào đời Tống, tiến sĩ Vương Hành Am ở Giản Châu kiềm chế hành vichẳng cẩu thả, là hàng xóm với người em họ bên ngoại là Trầm X… Họ Trầmmột mực chuộng dâm. Ông Vương thường khuyên lơn, nhưng họ Trầm khôngnghe. [Lại còn] ngấm ngầm sai một chị ở dụ dỗ ông Vương; ông nghiêm khắc cựtuyệt. Hắn lại tiếp tục sai một đứa tớ gái xinh đẹp ráng dụ dỗ ông, ông cũngnghiêm khắc cự tuyệt. Họ Trầm cố ý khiến cho ông phá giới để cười nhạo. Mộtngày nọ, ông và họ Trầm ra ngoài, gặp bọn trộm cướp. Họ Trầm do thuyền nhỏbèn trốn thoát. Thuyền của ông Vương bị bọn cướp chặn bắt được. Bỗng nhiênsấm chớp giáng xuống vang rền, bọn cướp kinh sợ bỏ đi. Ông bình an quay về,chẳng bị tổn thất gì. Về sau, họ Trầm ra ngoài, trở về nhà, thấy vợ và kẻ khácđang gian dâm, toan dùng võ khí đánh họ, tay bỗng dưng chẳng thể giở lên được!Trợn mắt, giậm chân, gào to một tiếng, chết ngắc! Lúc ông Vương năm mươi tuổi,bị bệnh ngặt nghèo, đạo sĩ [đánh đồng thiếp đi] dâng sớ, quỳ phục xuống rất lâusau, [mới tỉnh lại] nói: “Tra duyệt đại hạn của Ngài, chỉ thọ năm mươi tuổi. Thiêntào do thấy Ngài hai lần chẳng dâm, lại còn có thể thật tâm khuyên lơn kẻ khác,tăng thọ cho Ngài ba kỷ (ba mươi sáu năm) nữa”. Ông nghe nói run sợ. Về sau,quả nhiên thọ tám mươi sáu tuổi, tận mắt thấy con cháu phú quý.Nhận định: Vị này và ông Từ Tín Thiện đã có thể giữ mình nghiêm ngặt,lại có đức hạnh yêu thương người khác. Nếu người ấy nghe theo lời khuyên răn,ắt là người ấy sẽ được hưởng ân trạch. Dẫu kẻ ấy chẳng nghe, nhưng do nhiệt tâmkhuyến hóa, đã đủ để cảm động lòng trời, được phước. Người ta cũng sợ gì màchẳng làm vậy thay?* Phủ Gia Hưng có thư sinh nọ tánh thích ẩn giấu điều ác, phô bày điều thiện.Hễ gặp con em hoặc bạn bè bàn tới chuyện buồng the, liền nghiêm mặt, lộ vẻgiận, khuyên răn. Do vậy, soạn bài Khẩu Nghiệt Giới Văn (口孽戒文, bài văn rănđừng tạo mầm mống tội lỗi nơi miệng) để răn dạy hàng hậu học. Về sau, ông tađi thi. Đêm hôm trước ngày yết bảng, mộng thấy cha mình bảo: “Con đời trướcđã đỗ Tiến Sĩ từ tuổi thiếu niên. Do cậy tài, khinh rẻ kẻ khác, Thượng Đế phạtcon thi cử lận đận, trọn chẳng đỗ đạt. Tháng trước, có gã học trò đáng lẽ thi đậukhoa này, vì gian dâm gái chưa chồng mà bị xóa tên. Văn Xương Đế Quân tâubày: Con đã soạn bài Khẩu Nghiệt Giới Văn để khuyên người khác, âm công rấtlớn. Xin hãy điền tên con vào đó. Ắt con sẽ đỗ đạt, hãy nên càng thêm tu đức đểbáo đáp thiên thần”. Thư sinh ấy kinh hãi lẫn mừng vui. Sau khi thi đỗ, thư sinhcàng thêm cẩn trọng bội phần, làm quan tới chức Ngự Sử.* Tịch Khuông dĩnh ngộ từ bé. Gặp một thầy bói bảo: “Ông có nếp nhăn dọchướng vào miệng, sẽ bị chết đói. Ắt là sang năm [sẽ bị]”. Khuông rất lo lắng. Mộtbữa, gặp người bàn chuyện buồng the, hết sức liên quan đến danh tiết [của ngườikhác], Khuông hầm hầm giận dữ, khiến cho người nói chuyện đó hổ thẹn, khôngnói nữa. Chuyện ấy bèn lắng đi! Đã hơn cả năm mà ông Khuông vẫn chẳng hềhấn gì. Sau đấy, gặp lại thầy bói, ông ta ngạc nhiên hỏi: “Ông có âm công to lớngì mà khiến cho tướng mạo biến đổi nhanh chóng như vậy?” Về sau, ông Khuôngcó địa vị cao quý.* Vào thời Tống Đoan Tông , quân Nguyên tấn công Thai Châu, vợ mộtngười dân ở Lâm Hảilà Vương thị rất đẹp, bị bọn giặc bắt đem vào trong quân.Gã thiên phu trưởnggiết bố mẹ chồng và chồng cô ta, muốn ăn nằm với cô. Côta thà chết chẳng thuận theo, giả vờ nói: “Xin cho tôi để tang bố mẹ chồng vàTống Đoan Tông (Triệu Thị) là vị vua thứ tám và là áp chót của nhà Nam Tống. Ông làcon của Tống Độ Tông (Triệu Mạnh Khải). Ông được tôn lên làm vua tại Phước Châu khikinh thành Lâm An lọt vào tay quân Nguyên, vua Tống Cung Tông bị bắt, hoàng thân quốcthích bị cầm tù gần hết. Quân Nguyên lần lượt nuốt dần giang sơn nhà Tống. Năm 1278,quân Nguyên tấn công Tuyền Châu, Chương Châu, thẳng đường tấn công Triều Châu, đánhchiếm Quảng Châu. Tướng nhà Tống là Trương Thế Kiệt phải phò vua sang tỵ nạn tại TúSơn, rồi lùi về Tỉnh Áo. Khi tới Tỉnh Áo, sóng lớn khiến thuyền bị lật, Tống Đoan Tông rớtxuống nước, bị bệnh nặng. Ngày Tám tháng Năm năm 1278, ông qua đời ở Cương Châu,mới tròn mười một tuổi. Triều thần tôn Vệ Vương Bính lên ngôi vua, năm sau, thế cùnglực kiệt, trong trận Nhai Sơn, quân Tống đại bại, bị tiêu vong gần hết. Lục Tú Phu bèncõng Đế Bính nhảy xuống biển tự vẫn. Nhà Tống bị diệt vong!Lâm Hải là một thị xã thuộc về Thai Châu, tỉnh Chiết Giang.Theo cách tổ chức của quân Mông Cổ thuở ấy, cứ mười người lính có một người cầmđầu, gọi là thập phu trưởng. Một trăm người có một người cầm đầu gọi là bách phu trưởng,một ngàn người có người cầm đầu gọi là thiên phu trưởng.chồng một tháng rồi mới có thể hầu hạ bậc quân tử”. Thiên phu trưởng thấy côkhông đòi chết nữa, bèn chấp thuận lời thỉnh cầu, nhưng vẫn sai nữ tù nhân canhgiữ cô ta. Hôm quân Nguyên rút lui, hắn mang theo cô ta. Khi đi qua rặng ThanhPhong ở huyện Sơ, Vương thị ngửa mặt lên trời than: “Hôm nay, ta đã có chỗ đểchết rồi”. Liền cắn ngón tay, [lấy máu] viết thơ lên đá, gieo mình vào vách đá màchết. Chuyện đã cách nay tám, chín mươi năm, máu trên đá vẫn rõ nét như mới,chẳng bị mưa gió xóa nhòa. Một Nho sĩ đã làm thơ chê bai rằng:“Khiết chỉ đề thitự khả ai, ban ban bác bác thượng thanh đài, đương sơ nhược hữu thi trung ý,khẳng trục tướng quân mã thượng lai” (Cắn ngón đề thơ buồn gớm nhỉ? Đá rêuloang lổ phủ xanh rì. Thoạt đầu, nếu đúng như thơ tả, chắc sẽ theo chàng ruổingựa đi). Kẻ đề thơ ấy về sau không có con cái. Đời Nguyên, Dương Liêm Phucũng làm thơ vịnh rằng: “Giáp mã ngự đà bách lý trình. Thanh phong hậu dạhuyết thư hành. Chỉ ưng Lưu Nguyễn đào hoa thủy, bất tự Ba Lăng Hán thủythanh” (Cặp kè bên ngựa đường trăm dặm, đêm cuối trăng thanh viết huyết thư,chỉ nên tận hưởng Thiên Thai thú, Nhạc Dương sông Hán chẳng trong bằng) .Về sau, Liêm Phu không có con! Một đêm, mộng thấy một người đàn bà nói:“Ngươi có nhớ bài thơ đề vịnh Vương tiết phụ hay không? Tuy không thể tổn hạithanh danh của tiết phụ, nhưng đã hủy báng tiết nghĩa, tội ấy rất nặng! Vì thế, trờidứt đường con cái của ngươi!” Liêm Phu hối hận, tỉnh ngộ, lại đề thơ rằng: “Thiêntùy địa lão, thiếp tùy binh. Thiên địa vô tình, thiếp hữu tình. Chỉ huyết khiết khaihà kiều xích. Đài ngân hóa tác tuyết giang thanh. Nguyện tùy tương sắt thanhtrung tử. Bất trục hồ già phách lý sanh. Tam nguyệt tử quy đề đoạn huyết. Thuphong vô lệ tả ai minh”(Trời già theo đất, thiếp theo quân. Trời đất vô tình, thiếphữu tình. Máu cắn ngón tay như ráng đỏ, sông trinh xanh ngắt vết rêu in, nguyệnchết theo chồng cho trọn nghĩa, chẳng ham sống nhục với quân Hồ. Tháng Bachim cuốc kêu tan huyết, gió thu khôn cảm nỗi buồn thương). Sau đấy, lại mộngthấy người đàn bà đến cảm tạ, không lâu sau bèn sanh được một đứa con.* Quảng Tử Nguyên bị bệnh tim, suốt ngày mơ màng như đang nằm mộng.Nghe nói có vị lão tăng có thể chữa lành, bèn đến cầu xin. Vị tăng bảo: “ChứngBài thơ này mang ý nghĩa hủy nhục, khinh bạc rất lớn, chê trách Vương Thị đã chịu đểcho viên tướng Mông Cổ kèm cặp trên ngựa dẫn đi cả trăm dặm, đến cuối cùng mới viếthuyết thư liều thân, sao không tiếp tục sống để hưởng lạc thú giống như Lưu Nguyễn vàochốn thiên thai. Dẫu có liều thân thì thân đã nhơ uế, đâu có trong sạch như nước dòngHán Thủy ở Ba Lăng (Ba Lăng là tên gọi cũ của Nhạc Dương).Chim cuốc còn gọi là Đỗ Quyên hoặc Tử Quy hoặc Thôi Quy, là một loài chim nhỏ, thânđen pha xám, đuôi có vằn trắng, thường hay kêu ra rả vào tháng Sáu, tháng Bảy. Tiếngkêu nghe buồn nẫu ruột. Theo Thục Vương Bản Kỷ, sau khi Vọng Đế bị ép buộc, phảinhường ngôi, đã hóa thành chim Đỗ Quyên, do nhớ nước cứ kêu não nuột. Người ta tin làchim cuốc sẽ kêu cho đến khi nứt họng trào hết máu mà chết, cho nên mới có thành ngữ“tử quy đề huyết” (chim cuốc kêu khóc cho đến khi cạn máu).bệnh này là do dâm dục quá độ, thủy hỏa chẳng thể giao hội. Phàm những kẻ đắmđuối mỹ sắc, hoang đàng sắc dục [sẽ mắc bệnh này], gọi là ‘lòng dục do bị cảmnhiễm từ bên ngoài’. Đêm sâu nằm ngủ, tưởng nhớ mỹ sắc, hoặc mơ thấy giaohoan trong giấc mộng. Đó gọi là ‘dục vọng sanh từ bên trong’. Hai thứ ấy dây dưanhiễm đắm, đều hao tổn nguyên tinh, tăng thêm bệnh tật, tổn hại tánh mạng, ắt sẽtrở thành chứng bệnh chẳng trị được. Trước hết, hãy gấp nên đoạn trừ hết sạch ýniệm về sắc trong tâm, sau đấy lại điều dưỡng thân thể, chẳng để cho nguyên tinhrò rỉ, ắt thận thủy sẽ không đến nỗi tràn xuống dưới mà bị khô cạn, khiến cho canhỏa chẳng đến nỗi bốc lên trên. Thủy hỏa điều hòa, sẽ dần dần lành bệnh”. Vì thếnói: “Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ”.* Đời Tống, Bao Hoằng Trai lúc tám mươi tám tuổi còn được cử làm Xu MậtSứ. Tinh thần ông ta mạnh mẽ. Giả Tự Đạo cho rằng ông ta ắt có thuật dưỡngsanh bèn hỏi ông Bao. Ông Bao đáp: “Tôi có một loại thuốc viên để uống, nhưngchẳng truyền toa thuốc bí mật”. Tự Đạo vui vẻ xin thuốc. Ông Bao thong thả nói:“Loại thuốc viên do lão hủ đã uống chính là suốt năm mươi năm ngủ một mình!”Mọi người hiện diện đều cười to.* Bồ Đắc Chánh làm tri phủ Hàng Châu. Có cụ già trong vùng là Lý Giácđến yết kiến. Tuổi cụ đã hơn trăm, sắc mặt tươi tắn. Ông Bồ hỏi về thuật dưỡngsinh, cụ đáp: “Thuật của tôi rất hết sức giản dị, chỉ là đã sớm tuyệt dục đó thôi”.* Trương Thúy ở Thái Thương đã ngoài chín mươi, tai tinh, mắt sáng, vẫncòn có thể vẽ vời. Có người hỏi [cụ có bí quyết gì, cụ Trương] đáp: “Chỉ là cáitâm tham dục nhạt mỏng, tiết chế dục sự”.LẬP THỆPhát thệ trì giới* Xưa kia Châu Dụ thường tụ tập thiện hữu, dùng phuơng thức in những tờtruyền đơn răn dâm để phát cho các xã hữu. Mỗi người nhận một tờ, chia nhaukhuyên lơn mười người khác. Mỗi người đều kính cẩn ghi rõ quê quán, tuổi tác,tự ký tên họ, đem đốt để bẩm cáo trước Văn Võ nhị đế. Từ đấy về sau, dấy lêný niệm, thốt ra lời lẽ, đều chú ý thận trọng, nghiêm ngặt răn nhắc chính mìnhchẳng dính dáng chút tà dâm nào! Kẻ chẳng may đã phạm lỗi ấy, ý niệm hổ thẹn,hối hận vừa nẩy sanh, đã đủ để tiêu trừ lỗi lớn tầy trời! Kẻ may mắn chưa phạmlỗi ấy, từ nay, kiên quyết khống chế [chính mình], chẳng đến nỗi để ngọc trắngcó vết rạn nhỏ nhoi! Người này kẻ nọ răn nhắc lẫn nhau, từ đầu tới cuối khôngthay đổi, lần lượt khuyên bảo rộng rãi, ngõ hầu người đời vĩnh viễn đoạn trừ căncội oan nghiệt ấy, đều trở về đường ngay, ắt sẽ công đức tràn trề, mà phước cũngvô lượng.* Ông Lạc Quý Hòa bảo:- Cổ nhân nói ‘muôn điều ác, dâm đứng đầu. Trăm hạnh, hiếu đứng đầu’. Tôithường suy xét hai câu nói ấy, mong hiểu thấu rốt ráo ý chỉ của chúng, bèn biếthai câu ấy [thoạt nhìn dường như] tương phản, nhưng chúng vừa khéo thành tựulẫn nhau! Lý trong hai câu ấy có thể luận định như thế này. Đã coi dâm đứng đầumuôn điều ác, ắt có thể suy ra để biết: “Không dâm đứng đầu trăm hạnh”. Đã coihiếu đứng đầu trăm hạnh, ắt có thể suy ra mà biết: “Bất hiếu chính là cội nguồncủa muôn điều ác”. So đi tính lại, chỉ một lời đã đủ, nhưng tách ra thành hai [điềuđể nói]. Vì sao? Bởi lẽ, hễ ham dâm, sẽ chẳng thể trọn hiếu. Muốn tròn đạo hiếu,ắt phải bắt đầu bằng chẳng dâm!Bậc thánh nhân thời cổ chế định hôn nhân chính vì lẽ ấy. Bày ra mai mối,lập ra sáu lễ. [Hiểu theo phương diện] nhỏ [thì hôn nhân] cốt yếu là để nối tiếpdòng dõi, có người cúng tế tổ tiên, sáng tỏ luân thường, giúp cho đức hạnh. [Hiểutheo phương diện] to lớn thì đó chính là cội rễ để trị quốc, bình thiên hạ. Khônggì chẳng nhằm khiến cho con người được tròn vẹn đạo hiếu từ đầu đến cuối. Vìthế, nói: “Đạo của bậc quân tử bắt nguồn từ vợ chồng”. Cõi đời lẫn đạo nghĩađều suy vi, chẳng hành theo giáo huấn của bậc thánh triết, ý nghĩa cao quý của cổnhân mất sạch. Lễ nghĩa trở thành nói suông, coi chuyện vợ chồng như phươngtiện để hưởng dục lạc. Bọn thiếu niên đức nghiệp chưa thành, đã biết hâm mộ sắcđẹp của lũ gái tơ mơn mởn. Kẻ làm cha mẹ cũng hư vọng chiều theo ý con, đểVăn Võ Nhị Đế chính là Văn Đế (tức Văn Xương Đế Quân) và Võ Đế (Quan Công).nhờ vào chuyện đó khiến cho con đẹp lòng. Do vậy, công khai coi chuyện háosắc là chuyện chánh đáng trong đời người; lại còn nói khoa trương là “kế tục huyếtthống, nối tiếp dòng dõi”. Bởi đó, tình vợ chồng càng thêm sâu nặng, sự phụngdưỡng cha mẹ [ngày càng] thiếu sót. Dốc sức đẹp lòng vợ, coi cha mẹ như ngườingoài, mắc tội đại bất hiếu. Chẳng cần nói tới những kẻ nghèo hèn, [ngay nhưnhững kẻ có học thức, sang cả], con trai [vì mê vợ] mà trở mặt với mẹ, [con dâu]chửi mẹ chồng, đã thành thói thường từ lâu! Tình người khó bề hướng lành, dễquen theo thói ác, chính là vì đã coi chuyện vợ chồng là phương tiện để hưởngdục lạc. Ắt sẽ khiến cho quan niệm tình kiến khác biệt về nam nữ ngày càng sâu,ý niệm ham ái tham dâm này càng hừng hực! Có mới chán cũ, hễ tiếp xúc bènnẩy sanh tình, coi nam nữ trong thiên hạ chẳng qua là công cụ để thỏa mãn dụclạc cho ta, thói tà dâm dấy động. Ganh ghét nhau, giết chóc lẫn nhau, tổn hại thânthể, điếm nhục cha mẹ, muôn điều ác ồ ạt dấy lên, trăm hạnh đều phế sạch! Cáitội bất hiếu không gì nặng hơn!Xét đến cội nguồn, há chẳng phải là bắt nguồn từ ý niệm dâm dục của vợchồng ư? Vì thế, tôi nói “hai câu ấy tuy tương phản mà thật ra là khéo bổ trợ lẫnnhau”. Kẻ chẳng biết [lẽ này], vẫn cứ muốn gượng ép phân định chữ Dâm thànhtà và chánh. [Làm như vậy], há có thể nói là đã lãnh hội sâu xa ý chỉ của cổ nhânư? Kinh [Viên Giác] dạy: “Hết thảy chúng sanh đều do dâm dục mà có tánhmạng. Dục do ái mà sanh, mạng do dục mà có. Chúng sanh yêu mến tánh mạng,vẫn là do dục làm gốc. Hãy biết luân hồi có căn bản là Ái”. Kinh còn dạy: “Dovì dục cảnh, dấy lên sự nghịch thuận. Cảnh trái nghịch cái tâm yêu mến, bèn sanhlên ganh ghét, tạo các thứ nghiệp. Vì vậy, lại sanh vào địa ngục, ngạ quỷ”.Do những điều ấy, biết dâm chính là mối họa lớn trong đời người, thoạt banđầu, chẳng phân ra tà hay chánh vậy! Nhưng chúng ta kể từ vô thỉ cho tới nay, doái dục mà có thân này đã lâu. Tù ngục gia đình đã hình thành, nghiệp căn khó dẹptrừ! Đức Như Lai thương xót, vẫn mở ra phương tiện, chấp thuận kẻ chẳng hamtà dâm vẫn được gởi thân nơi hoa sen (kinh Giới Đức Hương dạy: “Chẳng xâmphạm vợ người khác, sẽ được hóa sanh trong hoa sen”). Ở đây, tôi nói những điềunày, chẳng phải là muốn ép buộc mọi người phải làm chuyện khó thể làm là “tuântheo chủ nghĩa tuyệt dục nghiêm ngặt”, mà thật sự là vì mong những người cùngchí hướng biết rõ: Những kẻ tham cầu dục lạc trong chốn khuê phòng, chẳng đoáihoài đại nghĩa luân thường thì đã là trái nghịch lý, huống hồ những kẻ mặc tìnhrong ruổi [thú vui xác thịt] bên ngoài, coi như là chuyện thường tình! Do vậy, suyra bèn biết: Tuy tận lực kiêng tà dâm, bất quá vẫn là [vâng giữ] một giới trongnăm giới của Nhân Thừa. Nếu vẫn mặc tình săn đuổi [xác thịt], ắt khó tránh chìmđắm trong tam đồ ác đạo. Do vậy, phát khởi cảm động [ai nấy dấy lòng] tận sứcphấn chấn tinh thần, trong là giữ vững cội gốc tề gia, ngoài là đoạn dứt cái tâmtranh giành, theo đuổi [dục vọng], truy tìm căn cội, dốc sức tu hành để mong cóngày đạt được Nê Hoàn (kinh Phật Bát Nê Hoàn có nói: “Kiêng tà dâm, được tăngtrưởng năm thứ phước, nhập đạo Nê Hoàn”), nhanh chóng thoát khỏi mười tội(sách Pháp Uyển Châu Lâm nói: “Do tà dâm bèn phạm mười tội”). Đức Phật nóilời thành thật, chẳng lừa dối ta. Vì thế, hãy quyết định đối trước trời Phật phát thệ,ước hẹn kiên quyết, dùng lời nguyện ấy để gìn giữ [bản thân chẳng sanh tà niệm,lời nguyện ấy được] viết rõ ràng ở đây. Những vị Phật tử đang hiện diện tại đây,ắt sẽ có người đồng tâm, cho nên [trước lời nguyện] tôi viết dông dài mấy câu ngõhầu khơi gợi.Lời thệ nguyệnNước…. năm… tháng… ngày, đệ tử lập nguyện kiêng tà dâm trai giới tắmgội, xông hương.Thắp hương, dâng sớ. Kính cẩn tuyên thệ trước tòa… rằng: Trăm điềuthiện, hiếu trước tiên; muôn điều ác, dâm làm đầu. Người khác cầm thú vì biếtnghĩ suy. Nhạn sống thành bầy trong đầm, còn chẳng cặp đôi bừa bãi. Ta là Phậttử, há chẳng bằng chim? Kể từ hôm nay, thề kiêng tà dâm, cho đến lúc chết, vĩnhviễn chẳng đổi lòng. Nếu có trái phạm, ắt thân chuốc họa. Nếu không sửa lỗi, hạiđến cháu con, nhuốm bẩn đại giáo, tội thật chẳng nhẹ! Xin hãy giết chết để khuyênrăn, các vị thần minh hộ pháp từ bi xót thương, xét soi tấm lòng quy hướng, hộtrì, ngấm ngầm che chở, đời đời vĩnh viễn bảo vệ.Đệ tử… kính cẩn ký tênMột là giữ vững giới lực. Tâm tưởng của con người hễ chẳng thiện thì là ác.Sự hưởng thụ của con người nếu chẳng phải là phước, sẽ là họa. Đạo trời giánghọa cho kẻ dâm, chẳng giáng tội cho người biết hối cải. Đúng là thoạt đầu mê,đến cuối cùng ngộ, tai ương sẽ lìa, phước đưa tới. Nhưng sau khi sám hối, thọ giới,phải dè dặt, cẩn trọng như vào rừng sâu, như bước trên băng mỏng, mãi cho đếnkhi mạng chung, sau đó mới có thể thưa với thần minh chính mình vô tội. Nếusau khi thọ giới, lại phạm giới, ắt lời thề ở trước, oai linh của thần ở sau, chắc chắnsẽ mắc họa, chẳng có thuốc chữa. Như mắc bệnh thương hàn vừa đỡ, bèn ăn đồhuyết nhục, hễ bệnh cũ phát ra, chắc chắn chẳng thể sống được! Chỉ mong nhữngngười có cùng chí hướng, hãy chí tâm quy y, luôn luôn [dè dặt, cẩn trọng nhưđang] đối trước thần minh, phút giây nào cũng thường nghĩ đến nỗi họa hoạn.Người xưa nói: “Một lần [phạm lỗi] là đã quá đáng rồi, há còn tái phạmư?” Huống hồ ta đã phát thệ, há giống như trò đùa bỡn của trẻ con ư?Hai là kiên trì tín tâm. Phàm là những người thọ giới, cần nên biết vận mạngcủa mỗi người khác nhau. Như đất có chất màu, trời đổ mưa, sương, vốn chẳngkhác biệt, do người trồng trọt vun quén, mà có cây nghiêng lệch, ngả bóng. Quyềnvun bồi, che chở là do trời, nhưng vun quén, nghiêng lệch thật sự là do ta. NhữngTùy theo phát thệ trước tượng Phật, Bồ Tát, thần minh nào mà xưng danh vị ấy.Nguyên văn “trực chí khải thủ khải túc chi hậu” (mãi chi đến sau khi có thể mở tay,mở chân ra coi). Thành ngữ này phát xuất từ chương Thái Bá trong sách Luận Ngữ: “Tăngtử hữu tật, triệu môn đệ viết: Khải dư túc, khải dư thủ” (Tăng Sâm mắc bệnh, gọi các đệtử bảo: “Mở áo coi chân ta, mở áo coi tay ta”). Theo các bản chú giải, Tăng Tử luôn rấtcẩn trọng giữ gìn thân thể, không dám tổn thương nhằm giữ trọn đạo hiếu. Khi sắp mất,ông bảo học trò coi tay và chân mình để chứng tỏ tay chân không bị tổn thương, khôngtổn hại đến cái thân do cha mẹ đã ban cho. Từ đó, chữ “khải thủ khải túc” được dùng vớiý nghĩa “chết tốt lành”.kẻ ác mà hưởng phước phi thường, chưa chắc đã là phước thật sự! Có thể là nhờvào điều ấy để khiến cho tai ương càng nặng nề hơn. Nếu không, là do tổ đứchoặc căn lành sâu dầy đời trước. Người lành vô cớ mắc họa, chưa chắc đã là nỗihọa thật sự, có thể là nhờ đó để khiến cho sự thành tựu của quý vị càng đẹp đẽhơn. Nếu không, [những ương họa ấy] là do túc nghiệp, oan khiên đời trước màra. Chỉ mong người đời nếu gặp thuận cảnh, hãy càng thêm tinh tấn. Nếu gặp phảinghịch cảnh, hãy càng nên dũng mãnh, kết cục [tốt đẹp hay xấu ác] đều do chínhmình đó thôi!GIỚI KỲBảo thân lập mạng giới kỳ cập thiên địa nhân kỵ(Những ngày nên kiêng kỵ hành dâm hòng bảo vệ thân mạng)Lý “làm lành được thiện, do dâm mắc họa” đã nói tường tận. Ngay như trongvòng vợ chồng, con người dễ sơ sót nhất. Chẳng biết trong một năm có nhữngngày nên đoạn dâm, trai giới. Như trong Nguyệt Lệnh đã nói: Ba ngày trước khicó sấm (ba ngày trước tiết Xuân Phân), [quan phủ] sai người đánh mõ gỗ tuyêncáo dân chúng: “Sắp có sấm động, kẻ chẳng kiêng ăn nằm, sẽ sanh con chẳnglành lặn, ắt gặp tai ương hung hiểm” chính là vì lẽ ấy. Huống hồ khí huyết lưuhành trong thân người vốn tương ứng với tiết khí trong trời đất. Nếu hành dâmchẳng đúng thời, ắt chẳng phù hợp thời tiết, sẽ bị thương tinh tổn khí gấp trăm lầnnhững khi khác. Còn như nhằm dịp thần minh giáng hạ soi xét, nếu dâm ô, mạomuội khinh nhờn, có kẻ bị khiển trách ngấm ngầm mà chẳng biết. Vì thế, trongcõi đời có những kẻ do thiếu cẩn trọng, gặp phải [ương họa] rành rành là mắcbệnh, chết yểu, hoặc gặp họa ngấm ngầm, tức là bị giảm mất tước lộc, giảm thọ,thường đều là vì lẽ này. Tới lúc ấy, dẫu hối hận, cũng chẳng thể cứu vãn được.Sao bằng vâng theo kiêng giữ để hối lỗi [ngay từ bây giờ]? Kính cẩn sao lục nhữngngày tháng cần phải kiêng dè và những ngày kỵ liên quan đến trời, đất, hoặc conngười. Kẻ đã biết tự yêu thương chính mình, sẽ đều tuân thủ vậy!Tháng Ngày kiêng Nguyên do Sự báo ứng dochẳng kiêng dâmThángGiêngMồng MộtTết Nguyên Đán, Ngọc Đế xemxét thần, khí, tài lộc, thọ mạngcủa con người. Nguyệt SócGiảm tài lộc, giảmthọ mười hai nămMồng Ba Vạn thần nhóm hội - ĐẩugiángGiảm thọ mười hainămMồng Năm Ngũ Hư kỵNguyệt Sóc (月朔): ngày mồng Một đầu tháng.“Đẩu giáng” (斗降) là thuật ngữ của Đạo giáo, chỉ Bắc Đẩu Tinh Quân giáng trần, tra xétthiện ác.Ngũ Hư là năm thứ bệnh trạng nơi thân thể, tức là mạch nhảy yếu ớt, da lạnh, tiêu chảyvà tiểu nhiều, ăn uống không tiêu, chân khí chẳng đủ.Mồng Sáu Lục Hao kỵ, Lôi trai nhật (mỗitháng giống nhau)Giảm thọ mười hainămMồng Bảy Ngày Thượng HộiTổn thọMồng TámVía Ngũ Điện Diêm La Thiên Tử- Tứ Thiên Vương tuần hành(mỗi tháng giống nhau)Giảm thọ mười hainămMồng Chín Vía Ngọc Hoàng Thượng Đế Giảm thọ mười hainămMười Ba Ngày kỵ Dương CôngMười BốnTam Nguyên Giáng - TứThiên Vương tuần hành (mỗitháng giống nhau)Giảm thọ mười hainămMười LămTam Nguyên Giáng - ThượngNguyên Thần Hội– NgàyRằm (mỗi tháng giống nhau) –Giảm thọ mười hainămLục Hao (六耗) là ngày có thể bị cảm nhiễm bởi sáu thứ bệnh do các yếu tố âm, dương,sáng, tối, gió, mưa theo Đông Y.Đây là một ngày trai giới theo Đạo giáo. Theo họ, vào ngày mồng Sáu mỗi tháng, CửuThiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn sẽ giáng tra xét thiện ác, nên tín chúngphải trai giới trong ngày ấy, gọi tắt là Lôi Trai Nhật (雷齋日). Ngày Hội ở đây bắt nguồn từ thời Trương Lăng lập ra Ngũ Đấu Mễ Đạo, “hội nhật” làngày Trương Lăng truyền đạo, trao chứng thư công nhận một người là tín đồ nhập đạo.Do vậy, về sau, Đạo Giáo quy định mỗi năm có ba ngày hội là Thượng Hội, Trung Hội vàHạ Hội. Trong ngày hôm ấy, các đạo quán sẽ cúng tế, đọc kinh, cũng như cử hành lễ truyềnđạo, hoặc phong cấp cho các đạo sĩ.Có nhiều cách giải thích về ngày này. Phổ biến nhất là truyền thuyết cho rằng Dươngcông ở đây là Dương Kế Nghiệp, người lãnh đạo dòng họ Dương Gia Tướng lừng danh thờiBắc Tống. Trong trận chiến tại bãi Kim Sa (thuộc vùng núi Lưỡng Lang), Dương Kế Nghiệpcho rằng tên gọi này có nghĩa là hai con sói, trong khi họ Dương (杨) của ông trùng âm vớichữ Dương (羊, con dê), rất bất lợi, dặn con em phải đề phòng cẩn thận. Kết quả, trongtrận chiến ấy, Dương Gia Tướng bị mai phục thất lợi. Con trai cả, con trai thứ hai, và contrai thứ bảy của Dương Kế Nghiệp đều bỏ mạng, con trai thứ tư lưu lạc sang phiên bang,con trai thứ năm bỏ đi tu. Dân gian lấy ngày Mười Ba tháng Giêng để làm lễ kỷ niệm sựhy sinh của cha con họ Dương, dần dần hình thành ngày kiêng kỵ.Tam Nguyên là Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Đạo giáo tin rằng trongmột năm có ba ngày Rằm lớn (tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Mười), tương ứng với ngàychủ trì của ba vị đại đế chủ quản là Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan. Những ngày cácNgài giáng xuống trần gian tra xét thiện ác sẽ gọi là Tam Nguyên Giáng.Tức là lễ Thượng Nguyên, thường gọi là Rằm Tháng Giêng.Tứ Thiên Vương tuần hành (mỗitháng giống nhau)Mười Sáu Tam Nguyên Giáng Giảm thọMười Chín Vía Trường Xuân Chân NhânHai MươiBaThần Tam Thi báo cáo - TứThiên Vương tuần hành (mỗitháng giống nhau)Hai MươiLămNgày Nguyệt Hối (mỗi thánggiống nhau). Ngày mở kho trờiđấtGiảm thọ, tổn thọ,con cái bị bệnh tật.Hai MươiBảyĐẩu giáng (mỗi tháng giốngnhau)Giảm thọ mười hainămHai MươiTámCác vị nhân thần ngự trong cõiâm (hãy nên kiêng ăn nằm trướcmột ngày)Bị bệnhHai MươiChínTứ Thiên Vương tuần hành (mỗitháng giống nhau)Trường Xuân Chân Nhân chính là Khưu Xứ Cơ (1148-1227), đệ tử thứ hai của VươngTrùng Dương (tức Vương Triết, sáng tổ của Toàn Chân giáo) trong nhóm Toàn Chân ThấtTử, và là tổ sư của chi phái Long Môn trong Toàn Chân giáo. Ông rất được các vua nhàKim kính trọng, cũng như từng được Thành Cát Tư Hãn mời sang Mông Cổ để hỏi đạo. Ôngcó ghi lại cuộc hành trình ấy bằng tác phẩm mang tên Tây Du Ký (ghi chép về những nơiông đã đi qua, đặc biệt là những địa danh nổi tiếng của Mông Cổ như hồ Buyur, UlanBator,Arkhangai v.v..). Tên gọi này đã khiến nhiều người hiểu lầm ông là tác giả của bộ tiểuthuyết Tây Du Ký kể chuyện Tề Thiên (bộ tiểu thuyết Tây Du Ký do Ngô Thừa Ân viết vàođời Minh).Ngày Nguyệt Hối (月晦) là ngày trăng mờ, tức là do vị trí của địa cầu và mặt trăng,trong những ngày ấy, hầu như không thể thấy mặt trăng được. Hiểu thông thường, ngàyBa Mươi mỗi tháng sẽ gọi là Đại Nguyệt Hối vì hoàn toàn không có trăng.Đây là một tập tục cổ của người Hoa. Ngày Thiên Địa Thương Khai (天地倉開, kho trờiđất mở) còn gọi là Điền Thương (chứa đầy kho). Vào ngày hôm ấy, nông dân tụ tập nơicông cộng trong thôn xóm trước khi mặt trời mọc, dùng tro cỏ cây vẽ mấy vòng tròn to,chính giữa vòng lần lượt bỏ các thứ thóc lúa, lương thực, làm ra vẻ như vừa mới gặt háivề, rồi đốt pháo, reo hò, với ý nghĩa cầu mùa màng bội thu. Đặc biệt là trong tháng Giêng,ngày này còn là ngày chính thức trở lại công tác đồng áng.Ba MươiNguyệt Hối – Tư Mạng báocáo (mỗi tháng giống nhau) - TứThiên Vương tuần hành (thángthiếu thì kiêng vào ngày HaiMươi Chín)Giảm thọTháng HaiMồng Một Nguyệt Sóc – Vía Nhất ĐiệnTần Quảng VươngGiảm thọ mười hainămMồng Hai Vạn thần nhóm họp, vía PhướcĐức Thổ Địa Chánh ThầnGiảm thọ mười hainăm, mắc họaMồng Ba Đẩu giáng, vía Văn Xương ĐếQuânGiảm tài lộc, giảmthọ mười hai năm.Mồng Sáu Lôi Trai Nhật, vía Đông NhạcĐế Quân Giảm thọMồng TámThích Ca Mâu Ni Phật xuất gia,vía Tống Đế Vương, víaTrương Đại Đế, Tứ ThiênVương tuần hànhGiảm thọ mười hainăm.Mười Một Dương công kỵMười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hànhMười Lăm Thích Ca Mâu Ni Phật bát NiếtBàn, Nguyệt Vọng, vía TháiGiảm tài lộc, giảmthọ mười hai năm.Tư Mạng là gọi tắt của Tư Mạng Táo Quân.Vị này chính là vị Diêm Vương cai quản điện thứ ba, cai quản Hắc Thằng đại địa ngụcvà mười sáu địa ngục nhỏ như địa ngục Xuyên Hiếp (đâm lủng hông), địa ngục Quát Chỉ(nạo mỡ) v.v…Trương Đại Đế là một vị thần dân gian được thiền gia Trung Hoa thờ như thần bảo hộđất đai và nhà chùa. Ông húy là Trương Bột, tự Bá Cơ, quê ở Long Dương, Vũ Lăng, sanhvào đời Tây Hán. Theo truyền thuyết, ông từng vận dụng quân lính cõi âm để đào đườngsông tại làng Thuận Lãnh, huyện Trường An, thuộc quận Ngô Hưng. Sau đó ẩn cư tại HoànhSơn. Dân cư nhớ ơn lập miếu thờ sau khi ông mất. Ông được sắc phong tước vương vàođời Tống. Tống Độ Tông đã truy tặng tước hiệu Chánh Hựu Thánh Liệt Chiêu Đức XươngPhước Chân Quân.Nguyệt Vọng là ngày Rằm.Thượng Lão Quân, Tứ ThiênVương tuần hànhMười Bảy Vía Đông Phương Đỗ TướngQuânMười TámVía Tứ Điện Ngũ Quan Vương,sinh nhật của Chí Thánh Tiên SưKhổng TửGiảm tài lộc, giảmthọ mười hai nămMười Chín Khánh đản Quán Âm Đại Sĩ Giảm thọ mười hainămHai MươiMốt Khánh đản Phổ Hiền Bồ TátHai MươiBa Tứ Thiên Vương tuần hànhHai MươiLăm Ngày Nguyệt Hối Giảm thọHai MươiBảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămHai MươiTám Nhân thần nhóm họp cõi âm Mắc bệnhHai MươiChín Tứ Thiên Vương tuần hànhBa MươiNguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo(tháng thiếu thì kiêng vào ngàyHai Mươi Chín)Giảm thọTháng Ba Mồng Một Nguyệt sóc – Vía Nhị Điện SởGiang VươngGiảm thọ mười hainăm Đây là một vị trong các thuộc hạ của Đông Nhạc Đại Đế, thường gọi là Ngũ Đạo TướngQuân, chưởng quản sanh tử. Đỗ Tướng Quân chính là Đỗ Bình.Mồng Ba Đẩu Giáng – Vía Huyền ThiênThượng ĐếGiảm thọ mười hainămMồng Sáu Lôi Trai Nhật Giảm thọMồng TámVía Lục Điện Biện ThànhVương - Tứ Thiên Vương tuầnhànhGiảm thọ mười hainămMồng Chín Ngưu quỷ thần xuất – Dươngcông kỵSanh ác thaiMười Hai Vía Trung Ương Ngũ ĐạoMười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hànhMười LămNguyệt vọng - vía Huyền Đàn,vía Hạo Thiên Thượng Đế, TứThiên Vương tuần hànhGiảm thọ mười hainămMười Sáu Khánh đản Chuẩn Đề Bồ Tát Giảm thọ mười hainămMười TámVía Trung Nhạc Đại Đế, vía HậuThổ Nương Nương, Tam Maogiáng hạ Đây là một vị thần trong Đạo giáo, vốn có tên là Huyền Vũ Đại Đế, chưởng quản phươngBắc, hàng yêu, phục ma, được tôn xưng là vị thần bảo hộ đất nước, cũng như là một vịchiến thần bảo hộ vương triều, nên thường được lập điện thờ ở phía Bắc kinh đô. Dophương Bắc thuộc Thủy (trong ngũ hành, Thủy được coi là màu đen), nên ông còn đượcgọi là Hắc Đế. Phương Bắc còn được gọi là Huyền Vũ theo kinh Dịch, nên ông còn có cácdanh xưng là Bắc Đế, Chân Vũ (vì nhà Tống kiêng húy chữ Huyền), Bắc Cực Đãng Ma ThiênTôn v.v… Hạo Thiên Thượng Đế là danh xưng khác của Ngọc Hoàng Đại Đế. Hậu Thổ Nương Nương chính là nữ thần chưởng quản đất đai trong Đạo giáo, còn gọilà Địa Mẫu nương nương, Địa Mẫu Nguyên Quân, Hậu Thổ Phu Nhân, Cửu U Tố Nữ v.v… Tam Mao Chân Quân theo truyền thuyết là ba anh em ở Hàm Dương, tức Mao Doanh,Mao Cố, Mao Trung đắc đạo vào đời Hán, ẩn cư tại Mao Sơn ở Vân Nam. Họ được coi là tổsư của phái Mao Sơn trong Đạo giáo.Hai Mươi Ngày mở kho trời đất, vía TửTôn Nương Nương Tổn thọHai MươiBa Tứ Thiên Vương tuần hànhHai MươiLăm Ngày Nguyệt Hối Giảm thọHai MươiBảyĐẩu giáng, vía Thất Điện TháiSơn VươngGiảm thọ mười hainămHai MươiTámNhân thần nhóm họp cõi âm, víaThương Hiệt Chí Thánh tiênsưBị bệnh, giảm tàilộc, giảm thọ mườihai nămHai MươiChín Tứ Thiên Vương tuần hànhBa MươiNguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,Tứ Thiên Vương tuần hành(tháng thiếu thì kiêng vào ngàyHai Mươi Chín)Giảm thọTháng TưMồng Một Nguyệt Sóc, vía Bát Điện ĐôThị VươngGiảm thọ mười hainămMồng Ba Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămMồng Bốn Vạn thần thiện hóa, khánh đảnVăn Thù Bồ Tátxảy thai, thai chếtyểuMồng Sáu Lôi Trai Nhật Giảm thọ Tử Tôn Nương Nương là vị thần được coi là có thể ban con cháu cho người thờ phụng.Tùy theo từng vùng tại Trung Hoa mà có đến hai mươi vị nữ thần được coi là Tử TônNương Nương như Bảo Đậu Phu Nhân, Kim Hoa Phu Nhân v.v…Theo truyền thuyết, Thương Hiệt (蒼頡) là người đã chế ra chữ Hán.Mồng Bảy Nam Đẩu, Bắc Đẩu, Tây Đẩucùng giáng hạ. Dương công kỵ. Giảm thọMồng TámKhánh đản Thích Ca Mâu NiPhật, Vạn thần thiện hóa. ThiệnÁc đồng tử giáng hạ. Vía CửuĐiện Bình Đẳng Vương, TứThiên Vương tuần hànhGiảm thọ mười hainăm, thai chết yểu,bị bệnh về máu màchếtMười Bốn Vía Thuần Dương tổ sư, TứThiên Vương tuần hành Giảm thọMười Lăm Nguyệt vọng, vía Chung Ly tổsư, Tứ Thiên Vương tuần hành Giảm thọMười Sáu Ngày trời đất mở kho Tổn thọMười Bảy Vía Thập Điện Chuyển LuânVươngGiảm thọ mười hainămMười Tám Ngày trời đất mở kho, vía Tử ViĐại Đế Giảm thọHai Mươi Vía Nhãn Quang Thánh MẫuHai MươiBa Tứ Thiên Vương tuần hành Thuần Dương tổ sư chính là Lữ Động Tân (Lữ Nham), thầy dạy đạo của Vương TrùngDương (sáng tổ Toàn Chân giáo).Chung Ly tổ sư, tức là Chung Ly Quyền, tức một vị trong Bát Tiên. Lữ Động Tân học đạotừ vị này.Tử Vi Đại Đế có tên gọi đầy đủ là Trung Thiên Tử Vi Bắc Cực Thái Hoàng Đại Đế, là contrai thứ của Đẩu Mẫu Nguyên Quân, chưởng quản các tinh tú, phước họa của hoàng gia.Vị này được coi là một trong Tứ Ngự Tôn Thần của Đạo giáo (Hạo Thiên Chí Tôn NgọcHoàng Thượng Đế, Trung Thiên Tử Vi Bắc Cực, Câu Trần Thượng Cung Thiên Hoàng ĐạiĐế, Thừa Thiên Hiệu Pháp Hậu Thổ Địa Kỳ. Vị sau cùng chính là Địa Mẫu). Tông ThiênThai và Thiền Tông Trung Hoa cũng xếp vị này vào trong hai mươi bốn vị hộ pháp củaPhật môn.Đây là một vị nữ thần trong Đạo giáo chuyên trị bệnh về mắt, được coi là hóa thân củaBảo Sanh Chân Nhân Hoằng Đức Bích Hà Nguyên Quân (gọi tắt là Thái Sơn Nương Nương,tức nữ thần núi Đông Nhạc). Nhãn Quang Thánh Mẫu còn gọi là Nhãn Mục Nguyên Quân,Nhãn Vương Nãi Nãi, Nhãn Quang Thánh Mẫu Huệ Chiếu Minh Mục Nguyên Quân v.v…Hai MươiLăm Nguyệt Hối Giảm thọHai MươiBảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămHai MươiTám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnhHai MươiChín Tứ Thiên Vương tuần hànhBa MươiNguyệt Hối, Tư Mạng báo cáo,Tứ Thiên Vương tuần hành (gặptháng thiếu thì kiêng vào ngàyHai Mươi Chín)Giảm thọThángNămMồng Một Nguyệt sóc, vía Nam CựcTrường Sanh Đại ĐếGiảm thọ mười hainămMồng Ba Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămMồng NămĐịa lạp, Ngũ Đế giảo địnhquan tước của con người, ngàyCửu Độc, Dương Công kỵGiảm tài lộc, giảmthọ mười hai năm,chết yểu, tai họa bấtngờMồng Sáu Ngày Cửu Độc, Lôi trai nhật Chết yểu, tai họa bấtngờMồng Bảy Ngày Cửu Độc Chết yểu, tai họa bấtngờCòn gọi là Nam Cực Tiên Ông, Nam Cực Lão Nhân, Thọ Tinh, hoặc Thọ Lão Nhân, là mộtvị thần chủ trì sự trường thọ. Vị này chính là ông Thọ trong bộ Tam Đa Phước Lộc Thọ.Địa Lạp chính là ngày lễ Đoan Ngọ, tức lễ Mồng Năm tháng Năm.Ngày Cửu Độc: Dựa theo truyền thuyết dân gian, tháng Năm được coi là tháng độc hại.Trong tháng ấy, sẽ có chín ngày độc hại nhất, khởi đầu từ ngày Đoan Ngọ. Để trừ độc, dânchúng uống rượu hùng hoàng, hái cỏ ngải v.v… Đây chính là lúc chuyển mùa từ Xuân sangHạ, sâu bọ sanh sôi nhiều, rất dễ bị nhiễm trùng. Khí trời oi bức, con người dễ bị bệnhnhất.Mồng Tám Vía Nam Phương Ngũ Đạo, TứThiên Vương tuần hành Tổn thọMười Một Ngày mở kho trời đất, vía ĐôThành Hoàng trong thiên hạ Tổn thọMười Hai Vía Bính Linh Công Tổn thọMười Ba Quan Thánh giáng thần Giảm tài lộc, giảmthọ mười hai nămMười BốnTứ Thiên Vương tuần hành, giờTý nửa đêm là lúc trời đất giaohòaTrong vòng ba nămvợ chồng đều chếtMười Lăm Nguyệt vọng, ngày Cửu Độc, TứThiên Vương tuần hànhChết yểu, tai họa bấtngờMười Sáu Ngày Cửu Độc, ngày nguyên khítạo hóa vạn vật trong trời đấtTrong vòng ba nămvợ chồng đều chếtMười Bảy Ngày Cửu Độc Chết yểu, tai họa bấtngờMười Tám Vía Trương thiên sưHai MươiHai Vía Hiếu Nga thần Giảm thọ mười hainămHai MươiBa Tứ Thiên Vương tuần hànhBính Linh Công còn gọi là Bính Linh Đế Quân hoặc Bính Linh Nhân Huệ Vương, hoặcLôi Hỏa Đô Nguyên Soái Thống Nhiếp Tam Sơn Bính Linh Nhân Huệ Đế Quân. Theo truyềnthuyết, ông là con thứ ba của Đông Nhạc Đại Đế. Ông là thần sấm, thần núi và thần hộpháp trong Đạo giáo. Trương thiên sư chính là Trương Lăng (34-156), người sống vào thời Đông Hán, thuộchuyện Phong (nay là thành phố Từ Châu, tỉnh Giang Tô), sáng tổ của Đạo giáo. Phái Đạogiáo của ông được gọi là Chánh Nhất, hoặc Thiên Sư Đạo. Con cháu ông vẫn tiếp tục giữngôi vị thiên sư cho đến hiện thời. Đời thứ sáu mươi bốn là Trương Nguyên Tiên (1931-2008). Ngôi vị thiên sư hiện đang bỏ trống vì con cháu họ Trương ở Đại Lục và Đài Loanđang tranh giành ráo riết ngôi vị này.Hai MươiLămNgày Cửu Độc, ngày NguyệtHốiChết yểu, tai họa bấtngờHai MươiSáu Ngày Cửu Độc Chết yểu, tai họa bấtngờHai MươiBảy Ngày Cửu Độc, Đẩu giáng Chết yểu, tai họa bấtngờHai MươiTám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnhHai MươiChín Tứ Thiên Vương tuần hànhBa MươiNguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,Tứ Thiên Vương tuần hành(tháng thiếu thì kiêng vào ngàyHai Mươi Chín) * Xét ra, thángnày kiêng [sắc dục] trọn thángthì hơnGiảm thọTháng SáuMồng Một Nguyệt Sóc Giảm thọ mười hainămMồng Ba Đẩu giáng, Dương công kỵ Giảm thọ mười hainămMồng Bốn Nam Thiệm Bộ Châu chuyển đạipháp luân Tổn thọMồng Sáu Ngày mở kho trời đất, Lôi trainhật Tổn thọMồng Tám Tứ Thiên Vương tuần hànhMồng Mười Khánh đản Kim Túc Như LaiCư sĩ Duy Ma Cật là hóa thân của Kim Túc Như Lai.Mười Ba Vía Tỉnh Tuyền Long VươngMười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hànhMười Lăm Nguyệt vọng, Tứ Thiên Vươngtuần hànhGiảm thọ mười hainămMười Chín Quán Âm Đại Sĩ Niết Bàn (ngàythành đạo)Giảm thọ mười hainămHai MươiBaVía Nam Phương Hỏa Thần, TứThiên Vương tuần hành Bị trùng tangHai MươiBốn Vía Lôi Tổ, vía Quan Đế Giảm tài lộc, giảmthọ mười hai nămHai MươiLăm Ngày Nguyệt Hối Giảm thọHai MươiBảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămHai MươiTám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnhHai MươiChín Tứ Thiên Vương tuần hànhBa MươiNguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,Tứ Thiên Vương tuần hành(tháng thiếu thì kiêng vào ngàyHai Mươi Chín)Giảm thọTỉnh Tuyền Long Vương: Người Hoa và người Ấn tin mỗi chỗ có nước đều có long vươngcai quản. Sông, rạch, hồ, suối, ao, đầm, chằm, khe, ngòi, giếng v.v… đều có long vương caiquản. Ở đây chỉ nói là Tỉnh Tuyền Long Vương (long vương cai quản giếng, suối) để phiếmchỉ các vị long vương.Lôi Tổ tức là Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn. Vị này là con traithứ chín của Nguyên Thỉ Thiên Tôn, và cũng là Hiên Viên Hoàng Đế sau khi xả thân hóathành. Ông chủ quản Lôi Bộ trông coi về sấm sét của Thiên Đình, thường xuống nhân gianvào mồng Sáu mỗi tháng để tra xét thiện ác, ngày hôm đó được gọi là Lôi Trai Nhật.Tháng BảyMồng Một Nguyệt sóc, Dương công kỵ Giảm thọ mười hainămMồng Ba Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămMồng Năm Ngày Trung Hội (có khi coi làngày mồng Bảy) Tổn thọMồng Sáu Lôi trai nhật Giảm thọMồng BảyĐạo Đức Lạp, Ngũ Đế so sánhthiện ác của con người, vía KhôiTinhGiảm lộc, giảm thọmười hai nămMồng Tám Tứ Thiên Vương tuần hànhMồng Mười Ngày âm độc, đại kỵMười Hai Vía Trường Chân Đàm chânnhânĐạo Đức Lạp là một trong năm ngày trai giới cúng tế của Đạo giáo (thiên lạp, địa lạp,đạo đức lạp, dân tuế lạp và vương hầu lạp), được quy định vào ngày mồng Bảy tháng Bảy.Họ tin vào ngày này Ngũ Đế sẽ hội tụ bảy loại khí ở phương Tây để tra xét thiện ác củanhân gian. Tín chúng nên trai giới, mở trai đàn cầu phước, siêu tiến tổ tiên. Ngũ Đế ở đâychính là Ngũ Nhạc Đại Đế tức năm vị thần chưởng quản năm ngọn núi lớn của Trung Hoa,quản sự sanh tử, thiện ác của toàn thể Trung Hoa, gồm Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Tề NhânThánh đại đế, Tây Nhạc Hoa Sơn Kim Thiên Nguyện Thánh đại đế, Nam Nhạc Hành SơnTư Thiên Chiêu Thánh đại đế, Bắc Nhạc Hằng Sơn Anh Thiên Huyền Thánh đại đế và TrungNhạc Tung Sơn Trung Thiên Sùng Thánh đại đế.145 Khôi Tinh chính là sao Khuê. Ngôi sao này được thần cách hóa thành Đại Khôi TinhQuân, trông coi về mạng vận, văn tài trong thi cử và văn bút nói chung của Nho sĩ. Trongthiên văn, Khuê Tinh (Khôi Tinh) gồm bốn vị sao trong tòa sao Bắc Đẩu, tức sao Thiên Xu(Dubhe), Thiên Toàn (Merak), Thiên Cơ (Phecda) và Thiên Quyền (Megrez). Đôi khi ngườita lầm lẫn sao Khuê với sao Văn Xương (vì Văn Xương Đế Quân cũng chủ trì khoa cử). Thậtra, sao Văn Xương thuộc chùm sao Tử Vi. Tinh tòa Tử Vi có rất nhiều nhóm sao, chẳng hạnBắc Cực, Tứ Phụ, Thiên Ất, Thái Ất, Âm Đức, Nữ Sử v.v… Nói cách khác, Văn Xương chínhlà chòm sao Đại Hùng (Ursa Major).146 Đàm Chân Nhân chính là Đàm Xứ Đoan, là một trong bảy vị đại đệ tử (Toàn Chân ThấtTử) của Vương Trùng Dương. Ông tên thật là Đàm Ngọc, tự Bá Ngọc, quê ở Ninh Hải, tỉnhSơn Đông. Khi ông bị bệnh, nghe danh Trùng Dương bèn đến xin chữa trị. Vương TrùngDương đóng cửa không tiếp, ông kiên trì cầu thỉnh ngoài cửa suốt đêm, cửa bỗng dưng mởra. Vương Trùng Dương cho là ông có duyên với đạo, gọi vào trò chuyện, bàn lẽ huyềnnhiệm trong Đạo giáo. Tới sáng, bệnh của Đàm Ngọc tự dưng khỏi hẳn. Ông bèn xin theohầu, Vương Trùng Dương bèn đặt đạo hiệu là Xứ Đoan, đạo tự là Thông Chánh, biệt tự làTrường Chân. Ông đảm nhiệm chức chưởng môn đời thứ ba của Toàn Chân. Môn đệ củaMười Ba Khánh đản Đại Thế Chí Bồ Tát Giảm thọMười Bốn Tam Nguyên giáng, Tứ ThiênVương tuần hành Giảm thọMười LămNguyệt vọng, Tam Nguyêngiáng, Địa quan tra sổ, Tứ ThiênVương tuần hànhGiảm thọ mười hainămMười Sáu Tam Nguyên Giáng Giảm thọ mười hainămMười Tám Vía Tây Vương MẫuGiảm thọ mười hainămMười Chín Vía Thái TuếGiảm thọ mười hainămHai MươiHai Vía Tăng Phước Tài ThầnGiảm tài lộc, giảmthọ mười hai nămông thành lập chi phái Nam Vô của Toàn Chân giáo. Sau khi ông mất, đồ chúng tôn xưngông là Huyền Đức Ôn Đức Chân Quân, Nguyên Thế Tổ sắc phong là Trường Chân Vân ThủyÔn Đức Chân Nhân.Tây Vương Mẫu có thể coi như là chúa của tất cả các vị tiên. Bà có tên gọi đầy đủ làBạch Ngọc Quy Đài Cửu Phụng Thái Chân Tây Vương Mẫu, hoặc gọi gọn là Kim Mẫu NguyênQuân, Diêu Trì Kim Mẫu (các phái Đạo giáo về sau, nhất là Minh Sư Đạo, thường gọi bà làDiêu Trì Phật Mẫu). Bà được coi là vị nữ thần do khí hỗn độn ban sơ kết thành. Theo CátHồng, khi vũ trụ còn hỗn độn, Nguyên Thỉ Thiên Tôn (tức Bàn Cổ Chân Nhân) tách rời trờiđất, ngự ở trung tâm trời đất gọi là Ngọc Kinh Sơn. Đạo khí kết thành một vị tôn thần tênlà Thái Nguyên Thánh Mẫu. Nguyên Thỉ Thiên Tôn lấy Thái Nguyên Thánh Mẫu sanh raThiên Hoàng Phù Tang Đại Đế và Tây Vương Mẫu. Nguyên Thỉ Thiên Tôn cho bà ngự tạinúi Côn Luân, chưởng quản vạn linh, chưởng quản chư vị tiên nữ. Có những sách nhưPhong Thần Diễn Nghĩa, Thần Tiên Truyện, Vạn Thế Chân Tiên Thể Đạo Thông Giám lạicoi bà là vợ của Hạo Thiên Thượng Đế, sanh ra hai mươi bốn công chúaTheo Đạo giáo, có tất cả sáu mươi vị thần lần lượt chưởng quản nhân gian mỗi năm.Sáu mươi vị thần ấy tương ứng với chu kỳ sáu mươi năm của một Hoa Giáp (tức là mườiThiên Can phối hợp với mười hai Địa Chi thành sáu mươi năm). Tùy theo vũ khí hoặc dụngcụ cầm trong tay của mỗi vị thần ấy (thường gọi là Trị Niên Thái Tuế hoặc Tuế Quân) màngười ta có thể dự đoán tình hình trong năm ấy. Chẳng hạn như năm Mậu Thìn, Thái Tuếlà Triệu Đạt đại tướng quân, mang hình rồng, hai tay cầm rồng, năm Quý Dậu, Thái Tuế làKhang Chí đại tướng quân, có hình gà, tay cầm cờ lệnh v.v…149 Vị thần này chủ quản về tiền tài, tài sản, có tên gọi đầy đủ là Tăng Phước Chí ThiệnBình Thí Chân Quân, hoặc gọi gọn là Tăng Phước Tướng Công. Theo truyền thuyết, ông tênthật là Lý Quỷ Tổ, người huyện Truy Xuyên thời Bắc Ngụy. Từng làm huyện lệnh huyệnKhúc Lương dưới thời Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế, nổi tiếng liêm khiết, chánh trực, yêu dânnhư con, thường đem hết bổng lộc của chính mình thí cho dân nghèo. Do vậy, sau khi mất,Hai MươiBa Tứ Thiên Vương tuần hànhHai MươiLăm Nguyệt Hối Giảm thọHai MươiBảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămHai MươiTám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnhHai MươiChínDương công kỵ, Tứ Thiên Vươngtuần hànhBa MươiKhánh đản Địa Tạng Bồ Tát,Nguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,Tứ Thiên Vương tuần hành(tháng thiếu thì kiêng vào ngàyHai Mươi Chín)Giảm thọ mười hainămThángTámMồng Một Nguyệt Sóc, vía Hứa ChânQuânGiảm thọ mười hainămMồng Ba Đẩu giáng, vía Bắc Đẩu, vía TưMạng Táo QuânGiảm tài lộc, giảmthọ mười hai năm, bịhỏa hoạnông được dân chúng lập miếu thờ. Nói về chức trách của ông, có hai thuyết: Một, ông làthuộc hạ của Đông Nhạc Đế Quân chuyên phán đoán công và tội của người vừa mất, hai làtính toán công đức của người đã chết để quyết định phước báo đời sau của người đó.Nhưng ông thường được thờ như là một vị Văn Tài Thần trong số các tài thần.Hứa Chân Quân tên thật là Hứa Tôn (239-374), tự là Kính Chi, là một đạo sĩ nổi danhđời Tấn. Ông quê ở huyện Nam Xương, được tôn xưng là tổ sư của phái Lư Sơn và TịnhMinh Đạo của Đạo giáo. Thuở trẻ ông thích săn bắn. Có lần đuổi nai, thấy nai mẹ lấy thânmình che cho con khi hai mẹ con rơi xuống núi, bèn cảm ngộ, bỏ săn bắn, theo Ngô Mãnhhọc đạo. Ông từng làm huyện lệnh huyện Thắng Dương (do vậy, Đạo giáo đôi khi gọi ônglà Thắng Dương Tổ Sư). Sau khi tám vương gia dấy loạn, ông từ quan, chuyên tâm truyềnđạo, hướng dẫn dân chúng sửa sang đê điều, nắn dòng sông để ngừa lũ lụt, nhất là tại vùngDự Chương, Hồ Quảng, Phước Kiến v.v… Ông cũng được coi là người có công trấn tà, trừcác loài thủy quái như giao long giúp dân.Mồng Năm Vía Lôi Thanh Đại Đế Giảm thọ mười hainămMồng Sáu Lôi trai Giảm thọMồng Tám Tứ Thiên Vương tuần hànhMồng Mười Vía Bắc Đẩu Đại ĐếMười Hai Vía Tây Phương Ngũ ĐạoMười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hànhMười LămNguyệt vọng, Thái Âm triềunguyên (hãy nên thắp hương,thức đêm), Tứ Thiên Vương tuầnhànhChết đột ngộtMười Sáu Thiên Tào Lược Loát ChânQuângiáng hạ Nghèo nàn, chết yểuMười TámNgày trời người tăng phước (hãynên trai giới, nghĩ tới chuyện tốtlành)Hai MươiBaTứ Thiên Vương tuần hành, víaHán Hoàn Hầu Trương HiểnVươngHai MươiBốn Vía Táo Quân phu nhânHai MươiLăm Ngày Nguyệt Hối Giảm thọVị này chính là Lôi Tổ đã được đề cập trong phần chú thích trước.Đây là một vị thần trong Đạo giáo chuyên đảm bảo tài sản của con người đúng với vậnmạng đã định. Nếu ai có tài sản vượt quá số lượng đã định sẵn trong mạng, vị thần này sẽtước đoạt bớt. Vì thế gọi là Lược Loát (掠刷, đoạt lấy, giảm trừ). Vị này còn gọi là LượtLoát Sứ hoặc Lược Loát Đại Phu.Vị này chính là Trương Phi (người kết nghĩa với Lưu Bị và Quan Vân Trường), ông đượcphong là Hán Hoàn Hầu.Hai MươiBảyĐẩu giáng, vía Chí Thánh TiênSư Khổng Tử, Dương công kỵGiảm tài lộc, giảmthọ mười hai nămHai MươiTámNhân thần nhóm họp cõi âm, tứthiên họp mặt nghị sự Bị bệnhHai MươiChín Tứ Thiên Vương tuần hànhBa MươiNguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,Tứ Thiên Vương tuần hành, chưthần tra xét (tháng thiếu thì kiêngvào ngày Hai Mươi Chín)Giảm thọThángChínMồng MộtNguyệt sóc, vía Nam Đẩu, từmồng Một đến mồng Chín, chínvị tinh quân thuộc Bắc Đẩugiáng hạ (trong chín ngày nàyđều nên kiêng hành dâm)Giảm lộc, giảm thọmười hai năm.Mồng Ba Vía Ngũ Ôn ThầnMồng Tám Tứ Thiên Vương tuần hànhMồng ChínVía Đẩu Mẫu, vía Phong ĐôĐại Đế, Huyền Thiên ThượngĐế phi thăngGiảm lộc, giảm thọmười hai năm.Nam Đẩu là tinh tòa sáu ngôi thuộc tinh hệ Nhân Mã (Sagittarius). Nam Đẩu gồm cóThiên Sát (Polis), Thiên Tướng (Kaus Borealis), Thiên Đồng (Nanto), Thiên Cơ (Nunki),Thiên Lương (Hecatebolus), và Thiên Phủ (Ascella). Đạo giáo coi sáu ngôi sao này là hóathân của Nam Đẩu Tinh Quân, và cho là Bắc Đẩu chủ tử, Nam Đẩu chủ sinh. Bắc Đẩu cũngcó hình giống cái gáo gồm bảy ngôi sao (Thiên Cơ, Thiên Tuyền, Thiên Quyền, Thiên Xu,Ngọc Xung, Khai Dương và Dao Quang).Còn gọi là Ngũ Ôn Sứ Giả, là những vị thần chuyên giáng ôn dịch, bao gồm Xuân ÔnTrương Nguyên Bá, Hạ Ôn Lưu Nguyên Đạt, Thu Ôn Triệu Công Minh, Đông Ôn Chung SĩQuý, và Tổng Quản Trung Ôn Sử Văn Nghiệp. Ôn dịch tức là bệnh truyền nhiễm cấp thời,đặc biệt là khi chuyển mùa.Đẩu Mẫu Nguyên Quân là một vị nữ thần được coi là mẹ của các vị tinh quân thuộc saoBắc Đẩu. Theo các nhà nghiên cứu, vị này chính là biến thể trong Đạo giáo của Ma Lợi ChiThiên từ Phật giáo. Về sau, bà còn được coi là mẹ của Bắc Cực Tử Vi Đại Đế và Câu TrầnĐại Đế, nên thường gọi là Cửu Hoàng Đại Đế Chi Mẫu.Phong Đô Đại Đế còn gọi là Phong Đô Gia, cai quản Thập Điện Diêm Quân và Ngũ PhươngQuỷ Đế, tức là người thống trị địa ngục trong Đạo giáo, có chức trách bảo toàn sự thuậnlợi cho người sống, duy trì trật tự trong cõi âm. Vai trò của vị này hẹp hơn Đông Nhạc ĐạiMồng Mười Đẩu Mẫu giáng hạ Giảm thọ mười hainămMười Một Nên kiêng cửMười Ba Vía Mạnh Bà tôn thầnMười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hànhMười Lăm Nguyệt vọng, Tứ Thiên Vươngtuần hànhGiảm thọ mười hainămMười Bảy Vía Kim Long tứ đại vương Bị tai nạn về nướcMười ChínNhật Cung Nguyệt Cung hộihợp, Quán Thế Âm Bồ Tát xuấtgiaGiảm thọHai MươiBa Tứ Thiên Vương tuần hànhHai MươiLăm Nguyệt Hối, Dương công kỵ Giảm thọHai MươiBảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămHai MươiTám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnhHai MươiChín Tứ Thiên Vương tuần hànhĐế, đóng vai trò phụ tá cho Đông Nhạc Đại Đế chuyên quản trị địa phủ, trong khi ĐôngNhạc chưởng quản mọi chuyện trong cõi âm.Mạnh Bà là vị thần theo Đạo giáo chuyên đảm nhiệm công việc khiến cho người ta quênhết chuyện đời trước khi đi đầu thai. Bà ở bên cầu Nại Hà, chế thuốc, thêm vào nước sôngVong Xuyên, tạo thành một thứ canh có đủ năm vị, gọi là Mạnh Bà Thang (canh của MạnhBà, ta quen gọi là “cháo lú”). Khi quỷ hồn được Thập Điện Chuyển Luân Vương cho đi đầuthai, quỷ sứ sẽ dẫn hồn đến cầu Nại Hà để Mạnh Bà cho uống cháo lú rồi mới đi đầu thai.Ba MươiKhánh đản Dược Sư Lưu LyQuang Phật, Nguyệt Hối – TưMạng báo cáo, Tứ Thiên Vươngtuần hành (tháng thiếu thì kiêngvào ngày Hai Mươi Chín)Bệnh nguy ngập,giảm thọThángMườiMồng Một Nguyệt Hối, Dân Tuế lạp, TứThiên Vương giáng hạGiảm thọ, chết trongvòng một nămMồng Ba Đẩu giáng, vía Tam Mao Giảm thọ mười hainămMồng Năm Ngày Hạ Hội, khánh đản tổ sưĐạt Ma Tổn thọMồng Sáu Thiên tào khảo sát Giảm thọ mười hainămMồng TámNgày Phật nhập Niết Bàn, đại kỵsắc dục, Tứ Thiên Vương tuầnhànhMồng Mười Tứ Thiên Vương giáng hạ Trong vòng mộtnăm sẽ chếtMười Một Nên kiêng sắc dụcMười Bốn Tam Nguyên giáng, Tứ ThiênVương tuần hành Giảm thọMười LămNguyệt vọng, Tam Nguyêngiáng, Hạ Nguyên Thủy Phủkiểm sổ sách, Tứ Thiên Vươngtuần hànhGiảm thọ mười hainămMười Sáu Tam Nguyên giángHai MươiBaDương công kỵ, Tứ Thiên Vươngtuần hànhHai MươiLăm Ngày Nguyệt Hối Giảm thọHai MươiBảyĐẩu giáng, Bắc Cực Tử Vi ĐạiĐế giáng hạGiảm thọ mười hainămHai MươiTám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnhHai MươiChín Tứ Thiên Vương tuần hànhBa MươiNguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,Tứ Thiên Vương tuần hành(tháng thiếu thì kiêng vào ngàyHai Mươi Chín)Giảm thọThángMười MộtMồng Một Nguyệt Sóc Giảm thọ mười hainămMồng Ba Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămMồng Bốn Vía Chí Thánh Tiên Sư KhổngTửGiảm lộc, giảm thọmười hai nămMồng Sáu Vía Tây Nhạc Đại Đế Giảm lộc, giảm thọmười hai nămMồng Tám Tứ Thiên Vương tuần hànhMười Một Ngày trời đất mở kho, vía TháiẤt Cứu Khổ Thiên TônGiảm thọ mười hainămMười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hànhCòn gọi là Thái Ất Thiên Tôn, Thanh Huyền Thượng Đế, Thanh Hoa Đại Đế, Tầm ThanhCứu Khổ Thiên Tôn, hoặc Thập Lực Cứu Khổ Thiên Tôn v.v… Ông ngự trong Diệu NghiêmCung thuộc thế giới Trường Lạc ở phương Đông, tiếp độ vong hồn chịu khổ. Do vậy, ôngthường được cầu đảo trong các dịp Thanh Minh, Rằm tháng Bảy, Trùng Dương v.v…Mười LămNguyệt vọng, Tứ Thiên Vươngtuần hànhPhạm dâm vào nửa đầu đêm Nam chếtPhạm dâm vào nửa cuối đêm Nữ chếtMười Bảy Khánh đản A Di Đà PhậtMười Chín Vía Thái Dương Nhật Cung Tai họa oái ămHai MươiMốt Dương công kỵ Tuyệt tựHai MươiBaVía Trương Tiên, Tứ ThiênVương tuần hànhHai MươiLămLược Loát Đại Phu giáng hạ,ngày Nguyệt Hối Đại hungHai MươiSáu Vía Bắc Phương Ngũ ĐạoHai MươiBảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămHai MươiTám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnhHai MươiChín Tứ Thiên Vương tuần hànhBa MươiNguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,Tứ Thiên Vương tuần hành(tháng thiếu thì kiêng vào ngàyHai Mươi Chín)Giảm thọTrương Tiên còn gọi là Tống Tử Trương Tiên, là một vị nam thần trong Đạo giáo có thểban cho người cầu đảo con cái giống như Tống Tử Nương Nương, Kim Hoa Phu Nhân v.v…Ông thường được biết đến như một vị thần bảo hộ trẻ nhỏ.ThángChạpMồng Một Nguyệt Sóc Giảm thọ mười hainămMồng Ba Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămMồng Sáu Ngày mở kho trời đất, Lôi trainhật Giảm thọMồng Bảy Lược Loát Đại Phu giáng hạ Bệnh ngặtMồng TámVương hầu lạp, ngày Thích CaNhư Lai thành Phật, Tứ ThiênVương tuần hành, ngày Mậutrong mười ngày đầu tiênGiảm thọ mười hainămMười Hai Thái Tố Tam NguyênQuân--ntriều chânMười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hànhMười Lăm Nguyệt vọng, Tứ Thiên Vươngtuần hànhGiảm thọ mười hainămMười Sáu Vía Nam Nhạc Đại ĐếMười Chín Dương công kỵHai Mươi Thiên địa giao đạo Rút ngắn tuổi thọHai MươiMốtNgày vía Thiên Do ThượngThái Tố Tam Nguyên Quân là một nữ thần trong Đạo giáo, là mẹ của Tam Tố NguyênQuân (Tử Tố, Hoàng Tố và Bạch Tố). Đạo giáo nói bà từ hư không kết thành hình, sanhtrên hoa trong cõi trời Cao Thượng Thượng Thanh Bảo Tố Cửu Huyền Ngọc Hoàng Thiên.Thiên Do Thượng Đế là một trong Bắc Cực Tứ Thánh của Đạo giáo, tức là bốn vị chânquân ở phương Bắc. Bắc Cực Tứ Thánh bao gồm Thiên Bồng Đại Nguyên Soái Chân Quân,Thiên Do Phó Nguyên Soái Chân Quân, Dực Thánh Bảo Đức Trừ Khánh Chân Quân và ChânVũ Linh Ứng Hựu Thánh Chân Quân. Bốn vị này là thuộc hạ của Bắc Đế.Hai MươiBaThần ngũ nhạc giáng hạ, TứThiên Vương tuần hànhHai MươiBốnTáo Quân chầu trời tâu điềuthiện lẽ ác của nhân gian Đại họaHai MươiLămTam Thanh, Ngọc Đế cùnggiáng hạ khảo sát thiện ác.Hai MươiBảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hainămHai MươiTám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnhHai MươiChínKhánh đản Hoa Nghiêm Bồ Tát,Tứ Thiên Vương tuần hànhBa Mươi Chư thần giáng hạ xem xét thiệnácPhạm lỗi hành dâmthì nam lẫn nữ đềuchếtNhận định: Trong Giới Kỳ trên đây, mỗi năm có tất cả hai trăm hai mươilăm ngày, tháng Nhuận tính theo tháng trước đó, đều là những ngày nhất địnhtrong một tháng.(1) Tháng có Xuân Phân và Thu Phâna. Tiết Xuân Phân: Sắp có tiếng sấm. Kẻ phạm dâm sẽ sanh con chẳng đầyđủ ngũ quan, tứ chi chẳng toàn vẹn. Cha mẹ gặp tai nạn. Hãy nên kiêng dục kể từtiết Kinh Trập. Kiêng hơn một tháng.b. Tiết Thu Phân: Sát khírất thịnh, dương khí ngày một suy. Hãy nênkiêng dục kể từ tiết Bạch Lộ, kiêng hơn một tháng.Tam Thanh (三清) là ba cõi trời cao nhất trong Đạo giáo, tức Thượng Thanh, Thái Thanhvà Ngọc Thanh. Nhưng khi nói đến Tam Thanh, ta thường hiểu là ba vị thánh nhân(Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (Lão Tử) và NgọcThanh Nguyên Thỉ Thiên Tôn) của ba cõi trời ấy, đồng thời là đấng sáng tạo vũ trụ. Đứngđầu trong ba vị ấy chính là Ngọc Thanh Nguyên Thỉ Thiên Tôn. Có thể hiểu đơn giản nhưsau: Vũ trụ là một khí, từ một khí tách thành ba nguyên tố chánh yếu, được thần cách hóathành Tam Thanh.Trời bắt đầu vào thu, cây cối rụng lá, tiêu điều, nên gọi là Sát Khí.Ba ngày trước và ba ngày sau hai tiết khí ấy, cộng thành bảy ngày. Phạmhành dâm trong những ngày ấy, ắt mắc bệnh ngặt nghèo, càng phải nên kiêng dènghiêm ngặt.(2) Tháng có Đông Chí và Hạ Chía. Hạ Chí: Âm Dương tranh chấp nhau, là lúc tử sanh tách rời, hãy nên kiêngdục kể từ tiết Mang Chủng, kiêng hơn một tháng.b. Đông Chí: Là lúc Âm Dương tranh nhau, sanh tử tách lìa. Hãy nên kiêngdục kể từ tiết Đại Tuyết, kiêng hơn một tháng.Hai tiết khí này là lúc Âm Dương dứt nối chuyển tiếp, cấm kỵ dâm sự nhất.Ba ngày trước và ba ngày sau hai tiết ấy, tổng cộng là bảy ngày, hễ phạm dục sự,nhất định sẽ bị bệnh nguy kịch, hãy càng nên răn dè.- Vào tiết Đông Chí, lúc nửa đêm, sau ngày Canh Tân, nhằm ngày Tuất thứba, nếu phạm dâm đều sẽ chết trong vòng một năm!- Ngày Tam Nguyên (Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Bảy, Rằm tháng Mười),phạm dâm sẽ bị giảm thọ năm năm.- Vào ngày Tứ Lập (Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông), Tứ Ly (ĐôngChí, Hạ Chí, Xuân Phân, Thu Phân), Tứ Tuyệt (ngày trước những ngày thuộc TứLập), Nhị Xã, hễ phạm dâm đều giảm thọ năm năm.- Thọ thai trong ngày Xã Nhật, râu tóc bạc trắng.- Vào ngày tam phục166, ngày trăng thượng huyền và hạ huyền, ngày khôngtrăng, ba ngày Tân mỗi tháng, nếu phạm dâm sẽ đều giảm thọ một năm.- Vào ngày Giáp Tý, ngày Canh Thân, ngày Thái Tuế, hãy nên dâng hương,giữ trai giới, cúng tạ Phật. Phạm dâm sẽ đều bị giảm thọ một năm.- Vào ngày giỗ tổ tiên, sinh nhật hoặc ngày giỗ của cha mẹ, hễ phạm dâm sẽđều giảm thọ một năm.- Vào sinh nhật của chính mình, của vợ hoặc chồng, nếu phạm dâm sẽ đềugiảm thọ.165 Nhị Xã: Hai ngày Xã, tức là ngày Mậu thứ năm sau tiết Lập Xuân, Lập Thu sẽ được gọilà Xuân/Thu Xã Nhật.166 Tam Phục là ba thời kỳ được coi là nóng nhất trong năm. Theo Âm lịch, từ sau tiết HạChí cho đến ngày Canh thứ ba sẽ là Sơ Phục; ngày Canh thứ tư gọi là Trung Phục, từ sauLập Thu cho đến ngày Canh thứ nhất là Hạ Phục.- Vào ngày Bính Đinh, ngày trời đất mở kho, hễ phạm dâm sẽ đều nhiễmbệnh.- Nhằm ngày hủy bại, tức là ngày Mười Tám tháng đủ, hoặc ngày Mười Bảytháng thiếu, hễ phạm dâm sẽ nhiễm bệnh.- Nhằm ngày Thập Ác đại bại, tức là vào năm Giáp hay Kỷ, nhằm ngày MậuTuất trong tháng Ba, ngày Quý Hợi trong tháng Bảy, ngày Bính Thân trong thángMười, ngày Đinh Hợi tháng Mười Một. Năm Ất hoặc Canh thì là ngày NhâmThân trong tháng Tư, ngày Ất Tỵ trong tháng Chín. Năm Bính hoặc Tân thì làngày Tân Tỵ tháng Ba, ngày Canh Thìn của tháng Chín, ngày Giáp Thìn của thángMười. Năm Đinh hoặc Nhâm không có ngày kỵ. Năm Mậu hay Quý thì là ngàyKỷ Sửu tháng Sáu. Những ngày ấy đều rất xấu, hãy nên kiêng dâm!- Ngày Âm Thác, tức ngày Canh Tuất tháng Giêng, ngày Tân Dậu tháng Hai,ngày Canh Thân tháng Ba, ngày Đinh Mùi tháng Tư, ngày Bính Ngọ trong thángNăm, ngày Đinh Tỵ tháng Sáu, ngày Giáp Thìn tháng Bảy, ngày Ất Mão thángTám, ngày Giáp Dần tháng Chín, ngày Quý Sửu tháng Mười, ngày Nhâm Týtháng Mười Một, ngày Quý Hợi tháng Chạp, những ngày ấy khí Âm không đủ,đều nên kiêng dâm.- Ngày Dương Thác, tức là ngày Thân và Dần trong tháng Giêng, ngày ẤtMão trong tháng Hai, ngày Giáp Thìn trong tháng Ba, ngày Đinh Tỵ trong thángTư, ngày Bính Ngọ trong tháng Năm, ngày Đinh Mùi trong tháng Sáu, ngày CanhThân trong tháng Bảy, ngày Tân Dậu trong tháng Tám, ngày Canh Tuất trongtháng Chín, ngày Quý Hợi trong tháng Mười, ngày Nhâm Tý trong tháng MườiMột, ngày Quý Sửu trong tháng Chạp. Những ngày ấy, khí Dương không đủ, đềunên kiêng dâm.Nhận định: Những giới kỳ đã nêu trên đây, mỗi năm đều dựa theo Thời HiếnThư để dựa theo từng tháng mà chép rõ ra, kẹp vào sách này hòng tuân theo cấmgiới.(3) Vào lúc thiên kỵ nên kiêng dâm:- Khi nắng gắt, hoặc lúc giá buốt. Hễ phạm phải sẽ mắc bệnh ngặt, chẳngchữa được.- Khi gió bão, giông tố, trời đất tối tăm, lúc nhật thực, nguyệt thực, lúc cầuvồng hiện ra, lúc mặt đất rúng động, phạm dâm sẽ sanh ra quái vật, mất mạng.- Vào lúc ban ngày, hoặc dưới trăng sao, trước ánh đèn mà phạm dâm sẽ đềubị giảm thọ.(4) Chỗ địa kỵ hãy nên kiêng dâm:- Trong phạm vị của miếu, đền, chùa, quán, điện thờ. Phạm dâm [ở nơi ấy]sẽ bị giảm lộc và thọ rất lớn.- Bên cạnh giếng, bếp, nhà vệ sinh, vườn hoang, mồ mả, xác chết, quan tài.Phạm dâm nơi đó sẽ có ác thần nhập thai, sanh ra quái vật, mất mạng!(5) Đối với chuyện nhân kỵ, nên kiêng hành dâm:- Khi uất hận, giận dữ khiến gan bị tổn thương. Phạm dâm ắt bị bệnh.- Khi đi xa, ân ái rồi đi xa trăm dặm sẽ bị bệnh. Khi vượt trăm dặm rồi ân áisẽ chết.- Khi uống say, ăn no mà ân ái, ngũ tạng sẽ bị đảo lộn.- Khi đói bụng mà ân ái sẽ tổn thương nguyên thần.- Sau khi bệnh, phạm dâm thì biến chứng sẽ trở lại.- Khi có thai mà hành dâm sẽ tổn thương thai nhi. Vì thế, sau khi biết có thai,hãy nên ngủ riêng, tuyệt dục. Một là nghiêm ngặt tuân thủ giáo huấn về thai sản,không lo bị đọa thai, cũng như trẻ nhỏ bị nhiễm các bệnh độc từ trong thai, sanhra các chứng bệnh đậu nguy hiểm, kinh phong, cam tẩu mã v.v… Hai là đứa consanh ra, con trai ắt đoan nghiêm, chững chạc, gái ắt trinh lương, nhỏ nhẹ, hiềndịu, tự nhiên chẳng phạm lỗi dâm dật.- Trong vòng mười ngày sau khi sanh mà ân ái, ắt vợ phải chết. Trong vòngmột trăm ngày mà ăn nằm, ắt vợ mắc bệnh.- Khi có kinh nguyệt, hành dâm sẽ trở thành chứng bần huyết, nam nữ đềubị bệnh.- Chiếu tre: Tánh của trúc là lạnh mát. Hành dâm trên chiếu tre dễ bị cảmnhiễm khí lạnh.- Mền mỏng: Hành dâm sẽ bị hơi lạnh thấu xương.- Nên tránh để cửa sổ có gió lọt qua khe, thức khuya nên kiêng hành dâm. -Vừa giao hợp xong, con thơ khóc nỉ non bên cạnh, chớ cho nó bú.- Giao hợp xong, chớ quạt ngay, và uống nước trà lạnh, vì nếu bị lạnh, cóthể bị chết ngay.- Một đêm chớ giao hợp hai lần.- Đừng uống những thứ thuốc kích dục.- Đừng kềm hãm không xuất tinh.- Khi ngã bệnh, nổi ghẻ chốc, lở loét, lên đậu, trừ phi đã bình phục hoàntoàn, vàn muôn phần đừng hành dâm. Nếu trái phạm, quá nửa sẽ bị chết!- Khi bị bệnh mắt chưa khỏi, hoặc vừa mới lành, phạm dâm ắt sẽ bị mù.- Khi bị bệnh hư lao, tuy đã dưỡng bệnh lành mạnh, vẫn nên đoạn dục mộtnăm. Nếu nghĩ là đã lành bệnh bèn phạm dâm, quá nửa ắt phải chết.- Thương tổn gân cốt: Sau khi đã lành, vẫn phải kiêng dâm một trăm bảymươi hoặc một trăm tám mươi ngày. Nếu chưa quá trăm ngày, phạm phải phòngsự, ắt sẽ chết. Dẫu sống sót, ắt cũng đến nỗi tàn phế.- Quá vất vả, quá lo lắng, quá nóng, quá sợ hãi, quá ưu sầu, đều chớ nênphạm dâm. Hễ phạm dâm, ắt sẽ thành bệnh dây dưa. Nặng thì sẽ chết ngay.Xét những kỳ hạn kiêng hành dâm theo từng tháng cũng như những ngàykiêng kỵ về khí trời hoặc con người đã nêu trên đây ra, mỗi tháng còn có sáu bảyngày chẳng có mảy may nào vi phạm. Nếu nói theo người biết giữ gìn thân thể,mỗi tháng chỉ nên ân ái tối đa ba bốn lần, sẽ có thể chẳng bị bệnh tật, tinh thầnmạnh mẽ, vững vàng. Hơn nữa, kẻ ít dục sẽ có nhiều con trai. Về sau, thân thểcủa người ấy cũng mạnh mẽ. Những kẻ trẻ tuổi vừa mới lấy vợ, thường buônglung dục vọng hại thân, khiến cho niềm hòa hợp trăm năm trong nhất thời bị diệtsạch sành sanh, rất đáng đau buồn! Sao bằng kính cẩn vâng giữ giới kỳ (nhữngkỳ hạn nên kiêng hành dâm), giữ thân lập mạng, ngõ hầu mai sau được hưởngniềm vui tề mi giai lão, may mắn lắm cháu đông con, sung sướng chi bằng?CẦU TỰBảo thân quảng tự yếu nghĩa(nghĩa lý chánh yếu để giữ gìn thân thể, đông con cháu)Chử Thượng Thư luận về chuyện đông con lắm cháu như sau:- Người xưa nam tử ba mươi tuổi lấy vợ, nữ nhân hai mươi tuổi lấy chồng, vìmuốn cho Âm Dương đã hoàn thiện, đầy đủ. Vì thế, hễ ăn nằm bèn có thai, cóthai bèn sanh con, con sanh ra sống lâu. Đời sau chẳng thể tuân theo lệ ấy, namchưa đầy mười sáu tuổi, nữ chưa tròn mười bốn, đã sớm lõi đời! Do ngũ tạng cóchỗ chưa vẹn đầy, mai sau ắt sẽ mắc bệnh quái lạ! Vì lẽ này, có kẻ sanh nhiều lầnmà con không nuôi được, nhân dân phần nhiều chết yểu! Nói chung là vì chẳngbiết đạo làm cha mẹ của kẻ khác. Đạo này có mối quan hệ chẳng nhỏ, thế nhưngkẻ làm cha chẳng tiện dạy con, người làm thầy chẳng tiện truyền cho trò. Về sau,mới nhận biết, hối hận thì đã muộn mất rồi.Tôi đặc biệt nói thô thiển như vậy, muốn cho những kẻ trẻ tuổi đều biết.Phàm là con gái, từ mười bốn tuổi trở đi, mỗi tháng đều có kinh nguyệt một lần,[kéo dài] ba ngày mới hết. Nói chung, cứ ba mươi ngày có kinh một lần là bìnhthường. Nếu hai mươi mấy ngày đã có kinh, hoặc ba mươi mấy ngày mới có, tứclà kinh nguyệt chẳng điều hòa, phần nhiều sẽ khó có con! Vì thế, cần phải uốngthuốc trước để điều hòa kinh nguyệt. Kinh nguyệt đã đều đặn rồi vợ chồng mớihòa hợp. Cần phải đợi sau khi ba ngày kinh nguyệt đã sạch thì mới có thể ân ái.Viên Liễu Phàm nói: “Phàm là phụ nữ khi kinh nguyệt sắp chấm dứt [mỗi tháng],sẽ có một ngày rạo rực, tức là ý xuân dấy động, nhưng thẹn thùng không chịu nói.Người làm chồng thường ngầm nói với vợ, để đến khi ấy vợ sẽ tự cho biết, có thểvừa ân ái bèn đậu thai”.Trương Cảnh Nhạcnói: “Nam nữ giao cấu, kết thành thai, tinh và huyếtvẫn là vật hữu hình thuộc về hậu thiên, nhưng có một điểm khí tiên thiên vô hìnhxen vào thì sau đấy sẽ kết thành thai. Khí tiên thiên của nam tử mạnh hơn, phầnnhiều sẽ sanh con trai. Khí tiên thiên của nữ nhân mạnh hơn, phần nhiều sẽ sanhTrương Cảnh Nhạc (1563-1642) tên thật là Giới Tân, tự là Cảnh Nhạc, biệt hiệu là HộiKhanh, là người thuộc xứ Sơn Âm, huyện Cối Kê (nay là huyện Thiệu Hưng, tỉnh ChiếtGiang) là một y gia lỗi lạc đời Minh. Ông vốn quê quán ở Miên Trúc, Tứ Xuyên, nhưng dotổ tiên có quân công, đời đời được làm Chỉ Huy Sứ huyện Thiệu Hưng, nên tổ phụ dời sangThiệu Hưng sinh sống. Từ nhỏ, ông đã học Hoàng Đế Nội Kinh từ cha, bái danh y Kim MộngThạch làm thầy. Ông cũng rất ưa thích binh nghiệp và kiếm thuật, từng đầu quân trongchiến dịch đánh Triều Tiên của nhà Minh. Sau khi thất bại trên đường binh nghiệp, ôngmới chuyên tâm nghiên cứu y học. Điểm đặc sắc nhất trong luận thuyết y học của ông làdùng kinh Dịch để nghiên cứu và giải thích y học. Tác phẩm y học nổi tiếng nhất là bộ LoạiKinh.con gái. Ngay trong lúc hai loại khí ấy cùng tụ hội, tinh huyết được bẩm thụ loạikhí nào, sẽ chia thành trai hay gái. Nhưng nữ tử chẳng phải là lúc dục tình đạt đếncực hạn, sẽ chẳng tiếp nhận [hai loại khí ấy]. Hễ đạt đến [mức cực hạn của dụctình], tử cung sẽ mở ra, tiếp nhận [tinh và khí] để thụ thai. Chỉ sợ tinh của ngườiđàn ông yếu ớt chẳng thể đậu thai được, cho nên dẫu làm chuyện ân ái mà vôdụng! Vì thế, tốt nhất là hãy giữ cho tinh sung mãn vài tháng rồi mới ăn nằm”.Cổ nhân nói: “Ít ham muốn sẽ sanh được nhiều con” chính là ý này.Bậc trung là đợi sau khi người nữ đã sạch kinh nguyệt mới ăn nằm, hoặc làtrong đêm trăng sáng, không mưa gió cũng được. Thường ngày chẳng gần nữ thân,ngủ riêng khác phòng, hoặc nằm khác giường, đắp mền riêng. Không chỉ là dễsanh con, mà còn có lợi cho thân thể của chính mình.Nếu là bậc hạ thì bất cần thời tiết, ngày giờ, hoặc dăm ba đêm một lần, kẻấy ắt sẽ thành bệnh nội thương. Lại còn kẻ thấp kém hơn nữa, đêm nào cũng làmmột lần, hoặc một đêm làm hai lần. Những gã vong mạng như thế, nhất định làtinh loãng như nước, chẳng bao lâu sẽ mắc bạo bệnh, chết ngắc.Phàm là những hôm trước và sau ngày Mồng Một và Rằm, chớ nên hànhdâm. Canh năm, nửa đêm, khí Dương trong thân mới sanh, hành dâm một lần sẽgiống như làm trăm lần, chớ nên làm! Thân bị bệnh nhẹ, chớ nên ăn nằm ([nếu cứlàm bừa], bệnh nhẹ biến thành nặng, bệnh nặng ắt sẽ chết). Sau khi uống say, khingồi thuyền, đi đường, trong vòng đôi ba ngày, chớ nên [hành dâm]. Gió to, sấmlớn, quá nóng, quá lạnh, lúc nhật thực, nguyệt thực, trước chỗ thờ thần, phía sauquan tài, trong khi trai giới để cúng bái, chỗ có mặt trời, mặt trăng, đèn đuốc chiếusáng, đều chớ có nên [hành dâm]. Nhằm ngày Canh Thân, ngày Giáp Tý, nhằmsinh nhật của chính mình, ngày Hai Mươi Tám mỗi tháng (đó là ngày các vị nhânthần nhóm họp tại cõi Âm) đều chớ có nên!Nếu nam nữ giao cấu, và sau khi mộng tinh, trong dăm ba ngày, đừng xuốngchỗ nước lạnh, chớ nên ăn hết thảy những thứ cơm canh nguội lạnh, chớ nên uốngcác loại thuốc có tánh lạnh. Nếu có bệnh bắt buộc phải uống thuốc, hãy nên nóirõ với thầy thuốc, giống như phụ nữ có thai, không thể hoàn toàn trông cậy vàosự chẩn mạch được, ngõ hầu khỏi bị hỏng chuyện. Ngày nóng, chớ nên tham chấtlạnh; trời lạnh, chớ nên xông mưa đột gió. Nếu phạm phải, ắt sẽ bị chứng quyếtâm, tức là nam bị teo dương cụ, nữ bị teo vú, tứ chi lạnh ngắt, đau bụng mà chết.Dẫu có đổ sâm, cũng không cứu nổi! Khi nữ nhân có kinh, cơ thể hư nhược, nhữngsự cấm kỵ cũng giống như thế.Nếu như bị sảy thai, quá nửa là do vợ chồng không cẩn thận. Có thai năm batháng mà bị sảy, người ta dễ biết. Chứ trong vòng một tháng hoặc nửa tháng bịsảy thai, nhiều người không biết. Ấy là vì [đậu thai] một tháng, thuộc về gan, ganchủ trì sự tiết dịch. Vợ chồng chẳng cẩn thận, thường có trường hợp nửa tháng đầuthụ thai, nửa tháng sau sảy thai mà không biết. Thậm chí có người có thai rồi sảythai nhiều lần, can mạch nhiều lần bị thương tổn, cho đến có kẻ suốt đời chẳngthể mang thai! Phụ nữ sau khi có thai, hãy kiêng dè cẩn thận, đừng phạm, trăm lầnchẳng sai một. Huống chi con ở trong bụng, cậy vào kinh huyết của mẹ điềudưỡng. Cứ một lần giao cấu, thai nguyên sẽ bị tổn thương một lần. May mắn sanhđược con, ắt nó sẽ lắm bệnh, ắt bị bệnh đậu nguy hiểm, rất khó nuôi khôn lớn.Người yêu thương con cái trong cõi đời, hãy đề phòng, gìn giữ nhiều cách,cho tới lúc nó mười sáu, mười bảy tuổi, về căn bản là chẳng bị tổn thương, suốtđời ít bệnh. Phải biết từ lúc trong bụng mẹ, đã sớm bị thảm thương, khi sanh ra,sẽ chẳng thành người; đấy là lỗi của ai? Há chẳng đau đớn ư? Có kẻ còn nghiềnnát dược hoàn bỏ vào tử cung để gieo giống, há chẳng phải là trong tinh huyếtcàng chứa thêm những chất cặn bã ư? Cổ nhân nói: “Gieo giống để sanh con, sẽchết vì đứt gân, thấu xương. Hơn nữa, gieo giống chưa chắc đã sanh được, sanhđược chưa chắc đã nuôi được, uổng công tạo oan nghiệt!” Những điều ấy đều[những lẽ trọng yếu] trong đạo làm cha mẹ. Xưa kia, tôi thích nói [những điềunày] cùng người khác, nay đã già rồi, không thể nói trọn khắp được nữa. Viếtthành lời này để thay cho việc nói trực tiếp. Người đời ai nấy đều biết dùng lòngyêu thương chính mình để yêu thương con cái vậy.* Tôn chân nhân nói:- Thân người chẳng phải do vàng sắt đúc thành, mà là cái thân do khí huyếtkết thành. Người đối với sắc dục không thể tự tiết chế, thoạt đầu nói là “chẳng trởngại”, đôi khi buông thả thì [thân thể] đã tổn thương theo thời gian, tinh tủy thiếuhụt, khí huyết suy bại, cái thân phải chết. Bởi lẽ, khí huyết của con người vậnchuyển theo sáu kinh (Thái Dương, Dương Minh, Thiếu Dương, Thái Âm, ThiếuÂm, Quyết Âm. Đó gọi là “lục kinh”), mỗi ngày chuyển theo một kinh. Sáu ngàybèn trọn khắp sáu kinh. Vì thế, cảm mạo bên ngoài là nhẹ nhất, ắt là sau bảy ngày,đổ mồ hôi rồi sẽ hết bệnh. Đấy là vì khí huyết đã chuyển hết một vòng.Khi con người dục sự đang nồng, chẳng tránh khỏi tim đập mạnh, toát mồhôi, thân nóng bừng, thần trí mơ hồ. Ấy là vì các đốt xương mở ra, gân mạch, lỏnglẻo. Tinh tủy đã tiết ra, khí huyết nơi một kinh bị thương tổn. Một kinh đã tổnthương, ắt phải đợi bảy ngày sau, khí huyết mới lại chuyển vận đến kinh ấy thìmới có thể hồi phục như cũ. Kinh Dịch nói: “Thất nhật lai phục”, có nghĩa làphải nghỉ ngơi, dưỡng sức bảy ngày [sau khi đã hành dâm]. Người đời chưa đếnbảy ngày đã lại xuất tinh, khí huyết nơi kinh lạc chẳng thể phục hồi như cũ. Đã bịthương tổn, lại bị thương tổn thêm, đến nỗi ngoài là cảm nhiễm, trong thì thiếuhụt, trăm thứ bệnh đều cùng dấy lên. Con người luôn đổ lỗi cho thời tiết, khí hậu,cho rằng bị bệnh là lẽ đương nhiên, chẳng biết nguyên do không phải là một sớmmột chiều mà ra! Nguồn gốc bệnh tật là do từ từ tạo thành vì chẳng thể cẩn thậngiữ gìn nghĩa lý “bảy ngày giáp vòng trở lại”.Nay lập hạn chế, hãy nghĩ tới căn bản điều độ dục vọng, gìn giữ thân thể.Thuở hai mươi tuổi, lấy bảy ngày một lần làm chuẩn. Khi ba mươi tuổi, lấy mườibốn ngày một lần làm chuẩn. Lúc bốn mươi tuổi, hãy nên hai mươi tám ngày mộtlần. Khi năm mươi tuổi, hãy nên bốn mươi lăm ngày một lần. Tới lúc sáu mươituổi, thiên quý (tinh thủy) đã tuyệt, chẳng thể phát sanh nữa, hãy gấp nên đoạnsắc dục, dứt bặt chuyện phòng the, kiên cố tinh tủy. Lấy sự thanh khiết, bế tànglàm gốc, muôn vàn chớ nên cho nó tiết ra. Số ngày hạn chế như đã nói trên đây lànói theo hai mùa Xuân và Thu, chứ trong hai mùa Đông và Hạ, [hành dâm vàomùa Hè] sẽ khiến cho hỏa bốc lên hết sức nóng, tinh tiết ra chẳng còn sót gì. Hailà [hành dâm vào mùa Đông] khiến cho Thủy bị cực hàn. Hãy nên bế tinh, tàngkhí nghiêm ngặt.Dẫu trong độ tuổi thiếu niên, cũng nên lấy chuyện đoạn dục làm chủ yếu.Nếu không, lúc hai mươi tuổi, có thể mười bốn ngày một lần. Khi ba mươi tuổi,có thể hai mươi tám ngày một lần. Lúc bốn mươi tuổi, có thể bốn mươi lăm ngàymột lần. Tới khi năm mươi tuổi, khí huyết suy giảm hết sức lớn, vào mùa Hạ cóthể là sáu mươi ngày một lần. Mùa Đông, hãy nên cẩn thận gìn giữ [chẳng dâm],chẳng để xuất tinh. Bởi lẽ, khí của trời đất và con người được phong bế hết sứckín vào mùa Đông, chuyên để làm cội gốc phát khởi cho mùa Xuân, càng quantrọng hơn mùa Hạ gấp mười lần. Người tuân theo cách thức này, có thể chẳng cóbệnh, tăng thọ. Kẻ trái nghịch điều này, ắt sẽ lắm bệnh, giảm thọ.* Vương Liên Hàng nói:- Xưa kia, Liên Trì đại sư bảo Vương Đại Khế; “Công khai bỏ thuốc độc vàothức ăn dở tệ chính nỗi thê thảm của sự giết hại. Ngấm ngầm bỏ thuốc độc vàothức ăn ngon lành chính là nỗi thảm của lòng dục”. Ôi chao! Từ xưa tới nay, bậctài năng, người đầy chí hướng có chí nguyện đẹp đẽ, phần nhiều chẳng thọ là vìđa dục mà nên nỗi! Trước đó, những người ấy cũng biết tự yêu thương chính mình;sau khi xảy ra chuyện, họ cũng biết hối tiếc. Nhưng đến khi dục tâm vừa hừng,chí khí mạnh mẽ mất sạch! Cứ ngỡ làm một lần cũng chẳng sao; sau này, sẽ chẳnglàm nữa. Đến nỗi nhiều lần đều nghĩ như thế, dục vọng buông lung càng thịnh,đến nỗi chẳng thể tự khống chế, chẳng biết làm sao được nữa? Vì thế, tinh cạnkiệt, thân thể yếu đuối, bệnh tật, chết mất. Chuyện biết tự thương mình thuở trướcđã thành vô dụng, mà chuyện đã xảy ra rồi, dẫu tiếc nuối cũng chẳng kịp! Hãynên ngăn dứt ân ái, tận lực suy nghĩ chuyện ấy có gì thật sự là vui thú? Xongchuyện, sẽ có ương hại gì? Khôn ngăn cười khan, ủ rũ, uể oải. Ngăn dứt dục vọngmột chốc, hòng mở rộng cái chí một đời. Bậc tài năng chí sĩ sẽ vui vẻ thuận theo.Còn những kẻ cam lòng làm phường hạ lưu, sẽ tự rút ngắn mạng sống, tôi chẳngbiết làm như thế nào? Kính cẩn noi theo lời dạy của Liên Trì đại sư, rõ ràng lànhằm dạy những kẻ đã giữ Tam Quy, Ngũ Giới. Ngài răn nhắc tiết dục, tức làchẳng vì những kẻ tà dâm, [ý nghĩa ấy] cũng rõ lắm thay! Nói chung, phóng túnglòng dục sẽ gây thành họa hoạn. Đối với vợ của chính mình mà còn như thế, vậythì những phường phóng đãng, săn đuổi sắc đẹp, ắt càng tự chuốc lấy nỗi diệtvong, cam tâm luân lạc trong loài súc sanh, chẳng đáng buồn ư?PHỤ LỤCTích tự do kết hôn tà thuyết văn(bài văn đả phá tà thuyết tự do kết hôn)Con người bẩm thọ khí Âm Dương của trời đất, bẩm thọ chất liệu tinh huyếtcủa cha mẹ mà sanh. Từ lúc mới sanh ra cho đến ba, bốn tuổi, nhất cử nhất độngđều cần phải do cha mẹ dưỡng dục. Sau đấy, tuy có thể tự hành động, nhưng đốivới các sự lý, đều cần phải nhờ cha mẹ sắp đặt, dạy bảo. Nếu không, sẽ chẳng thểsống sót trong cõi đời. Tới khi khôn lớn, được cha mẹ chọn người phối ngẫu, ngõhầu hưởng niềm hạnh phúc gia đình, những mong trong ngoài giúp đỡ lẫn nhau,có thể phụng dưỡng cha mẹ hòng tròn hết phận làm con, nối tiếp dòng giống,phòng khi già, chết. Đấy chính là đạo đương nhiên trong trời đất, là lễ nghi dothánh nhân vâng theo lẽ trời chế định, những mong ai nấy vâng giữ lẽ thường, trọnhết đạo làm người và đạo làm con. Nếu chẳng thuận theo lễ pháp của thánh nhânvà mạng lệnh của cha mẹ, chỉ vì tình cảm mê luyến giữa đôi bên mà kết thành vợchồng, ắt chẳng khác gì cầm thú! Những kẻ chẳng biết tốt xấu, chuyên bắt chướcthói xấu ác của Âu châu, nồng nhiệt đề xướng tự do kết hôn, sao không xướngxuất lúc mới sanh chẳng cần cha mẹ dưỡng dục, dạy bảo, cứ để cho con tự dotrưởng thành làm người? Nếu họ vừa sanh ra trong cõi đời, đã có thể tự do trưởngthành, trọn chẳng cần cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ, ắt cứ tự do kết hôn, đúng là sựlý hết sức thích đáng vậy! Nếu chẳng thể như thế, chỉ có khi trưởng thành là cóthể tự lực dốc sức lấy tình yêu nam nữ làm tiêu chuẩn, tức là kẻ có tội cực nặng,nghịch trời, trái lý, khinh miệt thánh nhân, coi rẻ luân thường vậy! Tâm hạnh ấygiống như cầm thú! Thật ra, chẳng bằng cầm thú, vì sao? Do cầm thú chẳng biếtluân lý, con người biết luân lý. Con người biết luân lý mà phế trừ luân lý, sẽ phảiở dưới loài cầm thú. Cư sĩ Chương Phủ Dương Chung Ngọc ở Vô Tích muốn cứuvãn phong tục suy đồi, bèn viết bài văn đả phá thói tự do kết hôn; do vậy, tôi viếtlời tựa dẫn nhập, hòng phát khởi những kẻ chưa phát khởi cái tâm, mong saonhững người đề xướng thuyết ấy đều giác ngộ.Triệu Thiệu Y ở Cổ Tân đề tựa.Thế tục bừng bừng đề xướng tự do kết hôn, đấy là hành vi của phường phóngđãng, dâm nữ, là phương cách để xói mòn lễ nghĩa, rối loạn sự khu biệt trongngoài giữa nam và nữ, chính là cái thói “khoét vách, vượt tường” từng bị MạnhTử quở trách. Dân ca nước Trịnh chê trách chuyện hái lan, tặng hoa thược dược.Chưa hề có bậc đoan chánh, cẩn trọng, cũng như hạng nữ nhân hiền thục, trinhtĩnh đề xướng tự do kết hôn. Xin luận định rộng hơn. Khúc Lễ nói: “Nam nữ bấttạp tọa, bất thân thọ, ngoại ngôn bất nhập ư khổn, nội ngôn bất xuất ư khổn. Namnữ phi hữu hành môi, bất tương tri danh. Phi thọ tệ, bất giao, bất thân” (Nam nữchẳng ngồi lẫn lộn, chẳng nắm tay. Lời bên ngoài chẳng lọt vào chỗ khuê các. Lờitrong buồng thêu chẳng lọt ra ngoài167F168. Nam nữ nếu không qua mai mối, chẳngbiết tên nhau. Chưa nhận sính lễ, sẽ chẳng giao du, thân thiết). Vì thế, đối trướcnhật, nguyệt để thưa trình, trai giới tâu bày cùng quỷ thần, bày tiệc rượu mời mọcláng giềng, bè bạn [để tổ chức hôn lễ], hòng nhấn mạnh sự khác biệt giữa nam vànữ. Như thế thì nam nữ cách biệt tỵ hiềm đã càng rõ ràng! Chuyện phi lễ chớ nênthấy, nghe, nói, nghĩ! Há có chuyện tự do kết hôn?Khổng Tử dạy: “Phóng Trịnh thanh, Trịnh thanh dâm” (Bỏ dân ca nướcTrịnh vì dân ca nước Trịnh dâm đãng), vì Ngài ghét người nước Trịnh chẳng táchbiệt nam nữ. Mạnh Tử nói: “Trượng phu sanh nhi nguyện vi chi hữu thất. Nữ tửsanh nhi nguyện vi chi hữu gia. Bất đãi phụ mẫu chi mạng, môi chước chi ngôn,tắc phụ mẫu quốc nhân giai tiện chi” (Nam tử sanh ra mong cho có vợ, con gáisanh ra mong cho có chồng, chẳng đợi lệnh cha mẹ, chẳng thông qua lời mai mối[mà tự tiện chung chạ], ắt cha mẹ, người dân trong nước đều coi thường), [vậy thì]những kẻ kém hèn, [tự do chung chạ], quên bẵng cha mẹ, ắt liêm sỉ càng hiếmhoi hơn! Lại nói: “Nhân sở dĩ dị ư cầm thú giả cơ hy!” (Con người chẳng kháccầm thú cho mấy). Bởi lẽ, cầm thú đều là tự do luyến ái. Do con người là “vạnvật chi linh”, nên thánh nhân lập ra lễ nghĩa, hòng khác xa cầm thú, sao lại phếbỏ? Chương Hôn Lễ [trong sách Lễ Ký] nói: “Phụ thân tiếu tử, nhi mạng chi thânnghênh. Ấp nhượng thăng đường, tái bái điện nhạn” (Cha vì con dâng rượu cáotế quỷ thần, tổ tiên, sai con đi rước dâu. [Đến nhà gái], vái chào, nhường nhaubước lên thềm vào nhà, rồi lại dâng sính lễ). Ấy là vì [kết hôn] là đích thân vângtheo lời cha mẹ dạy vậy. Nam nữ có phận sự khác biệt, cho nên sau đấy mới cónghĩa vợ tình chồng. Chương Giao Đặc Sanh [của sách Lễ Ký] chép: “Phụ nhântùng nhân giả dã, ấu tùng phụ huynh” (Phụ nữ phải nương tựa người khác, thuởtrẻ bèn nương cậy cha, anh). Vậy thì nam lẫn nữ đều nghe lệnh cha, anh, há cóchuyện tự do kết hôn? Phần Nội Tắc [trong Lễ Ký] chép: “Thất niên nam nữ bấtđồng tịch, bất cộng thực” (Nam nữ từ bảy tuổi trở lên không ngồi cùng chiếu,không ăn chung). Lại nói: “Lễ thỉ ư cẩn nội ngoại. Nam tử cư ngoại. Nữ tử cư nội.Thâm cung, cố môn, hôn tự thủ chi” (Lễ bắt nguồn từ sự cẩn trọng phân biệt trongngoài. Nam ở bên ngoài, nữ ở bên trong. Trong cung cấm, cửa nẻo nghiêm ngặt,có các hoạn quan canh giữ). Lại nói: “Nam bất ngôn nội, nữ bất ngôn ngoại. Namtử nhập nội, bất khiếu bất chỉ. Nữ tử xuất môn, tất ủng tế kỳ diện, đạo lộ nam tửdo tả, phụ nhân do hữu”(Nam chẳng nói đến chuyện trong khuê phòng, nữ chẳngTrịnh Huyền chú giải câu này có nghĩa là nam nữ có trách nhiệm khác biệt, vợ khôngcan thiệp vào con đường sự nghiệp của chồng, chồng phải coi trọng quyết định nuôi dạycon cái, chăm sóc gia đình của vợ.nói đến chuyện bên ngoài. Đàn ông [có chuyện cần phải] vào trong khu vực củaphụ nữ, không gây ồn náo, không chỉ trỏ. Nữ nhân ra khỏi cửa, ắt phải che mặt.Trên đường sá, nam đi bên trái, nữ đi bên phải). Sự tách biệt nam nữ bắt nguồn từgia đình cho đến ngoài đường phố, giữ nghiêm cẩn trong ngoài như thế, há cóchuyện tự do kết hôn?Hơn nữa, cưới vợ nhằm phụng dưỡng cha mẹ. Bài thơ Thường Lệ trong kinhThi có câu: “Thê tử hảo hợp, như cổ sắt cầm” (Vợ chồng hòa hợp như gảy đànsắt, đàn cầm). Khổng Tử nói: “Phụ mẫu kỳ thuận hỹ hồ!” (Cha mẹ ắt chẳng vuilòng ư?) Thiên Nội Tắc [trong sách Lễ Ký] nói: “Tử thậm nghi kỳ thê, phụ mẫubất duyệt xuất, tử bất nghi kỳ thê. Phụ mẫu viết: Thử thiện sự ngã, tử hành phuthê chi lễ yên” (Con rất yêu thích muốn lấy một người nữ, nhưng cha mẹ lộ vẻkhông vui thì con chẳng nên lấy cô vợ ấy. Cha mẹ bảo: ‘Đứa con gái này khéophụng sự ta”, con sẽ làm lễ kết hôn với cô gái ấy), dẫu đến chết, hôn nhân chẳngsuy bại! Bậc tiên triết có dạy: “Tử chi hiếu, bất như suất phụ dĩ vi hiếu. Phụ năngdưỡng thân giả dã” (Con trai hiếu thuận, chẳng bằng dìu dắt vợ cũng hiếu thuận,vì vợ có thể phụng dưỡng cha mẹ). Cổ nhân đều do cha mẹ chủ hôn; vì thế, có thểkhiến cho cha mẹ vui lòng, phô trọn lòng hiếu dưỡng. Kẻ chẳng thuận thảo chamẹ, chẳng xứng làm con. Hôn nhân là cội gốc to lớn của lễ, kẻ làm con phải cóhiếu tâm, hãy nên lấy tâm cha mẹ làm tâm của chính mình. Nếu [cưới hỏi] chẳngdo cha mẹ, chẳng cần biết đến xuất thân, phẩm đức [của người phối ngẫu], cứ nóitự do luyến ái, ắt có khác gì gái làng chơi đón khách? Tôi chưa thấy gái làng chơiđón khách mà có thể hiếu dưỡng cha mẹ, bố mẹ chồng!Tà thuyết tự do trong hiện thời, trước hết là đạp đổ hôn lễ; do vậy, trái nghịchluân thường trong trời đất! Vứt bỏ mạng lệnh của cha mẹ, đã bất hiếu, lại còn đèothêm bất tín, bất nghĩa. Ngàn lời vạn lẽ, đủ mọi lý do, bất quá là tự do luyến ái đóthôi! Thử hỏi loài đội lông, mang vảy, có loài nào chẳng phải là tự do luyến ái?Há chúng biết đến lễ nghĩa, há biết hiếu thảo cha mẹ, kính trọng bậc trưởng thượngư? Há có nên giống như lũ mang lông, khoác vảy ư? Hơn nữa, vợ chồng do nghĩamà kết hợp, chủ yếu nhằm tôn trọng cha mẹ, coi trọng sự ước hẹn, mở rộng thànhsáu lễ. Vì thế, một khi đã kết vầy loan phụng, sẽ có thể suốt đời chẳng thay đổi,cùng chịu hoạn nạn, cùng hưởng an lạc, hiếu thảo với cha mẹ, thuận hòa với họhàng, nuôi nấng con cháu nên người. Nay những kẻ do tự do luyến ái mà trở thànhvợ chồng, vì trái nghịch sự tôn kính cha mẹ, khinh miệt lễ nghĩa, ắt sẽ “tiền hết,tình cũng thôi”, nhan sắc tàn phai, tình yêu sẽ nhạt nhòa! Do từ ban đầu là tự dokết hợp, rốt cuộc sẽ là tự do ly tán. Danh tiết vùi tận đất, xóm làng xem thường.Bọn họ ngỡ tự do sẽ là hạnh phúc suốt đời, tôi sợ rằng do tự do chẳng chánh đáng,phần lớn sẽ là hy sinh niềm hạnh phúc suốt đời của nam nữ, điếm nhục gia phong,cắt đứt ân trạch nhiều đời! Vì thế nói: “Chẳng có người nam đoan chánh, cẩntrọng, hoặc người nữ hiền thục, trinh tĩnh nào nỡ lòng xướng suất tự do kết hôn!”Phần Đại Truyện của kinh Lễ có nói: “Nam nữ hữu biệt, bất khả dữ dân biếncách” (Đối với sự khác biệt của nam nữ, chẳng thể để cho dân chúng thay đổiđược). Phần Giao Đặc Tánh [của Lễ Ký] chép: “Nam nữ hữu biệt, nhiên hậu phụtử thân” (Do nam nữ khác biệt mà sau đó mới có tình thân cha con). Bởi lẽ, có vợchồng rồi sau đó mới có cha con, anh em. Nam nữ chẳng khác biệt, ắt giềng mốivợ chồng mất sạch, phế hết luân thường, con người lẫn lộn cùng cầm thú. Tự dokết hôn để lại nỗi độc hại dường ấy, há chẳng thận trọng ư?Nếu viện cớ Đông Tây mỗi nước khác biệt, há có biết Âu Mỹ đặc biệt chuộng“xem nhẹ tiền tài, coi trọng đạo nghĩa”? Những điều hay đẹp của mỗi nước có thểchọn lấy cũng nhiều lắm, sao lại riêng học theo thói không nghiêm ngặt phân biệtnam nữ, đến nỗi kẻ chửa hoang, phá thai ngày càng lắm, hình luật chẳng thể cấmcản, hết sức trái nghịch chủ nghĩa nhân đạo. Những năm gần đây, do dân cư nướcPháp giảm ít, [chánh quyền] cưỡng bách hôn nhân. Vì nữ sinh sa đọa, Nhật Bảnbèn chú trọng phong hóa, kỷ cương. Xét đến nguyên nhân, đều là do dâm dật.Nước ta, coi giáo hóa quan trọng nhất, danh tiết của phụ nữ há có nước nào sánhbằng? Nay hãy nên chọn lấy sở trường của mỗi nước, gạt bỏ sở đoản. Chẳng nênvứt bỏ sở trường của ta để học đòi thói dâm dật, phong tục tệ bạc của bọn họ!Mạnh Tử nói: “Tường tự học hiệu, giai dĩ minh luân” (Các loại trường học đềunhằm giảng rõ luân thường). Quản Tử nói: “Lễ nghĩa liêm sỉ, quốc chi tứ duy” (Lễ,nghĩa, liêm, sĩ là bốn giềng mối của đất nước). Trộm mong giới học thuật toànquốc, hãy thi hành sự giáo hóa của Khổng Mạnh để giáo hóa toàn cầu, hòng đảphá những thuyết tà vạy, dâm dật, khiến cho muôn nước được hưởng phong hóatốt lành, cùng hướng đến sự thịnh trị đại đồng. Chuyện này ắt phải bắt nguồn từai nấy đều nói rõ luân lý, tận lực tôn sùng lễ nghĩa, liêm sỉ.Bất Khả Lục kỷ nghiệm(Ghi chép những chuyện linh nghiệm của bộ Bất Khả Lục)* [Tôi có] người bạn là Quý Bang Thái, là người nổi tiếng ở Ngô Hưng, sốngtại trấn Nam Tầm. Tôi vừa mới in xong bộ Bất Khả Lục, nhằm lúc ông Quý trôngcoi việc giáo dục tại huyện Trấn Hải, bèn viết thư, gởi kèm cho ông ta hai trămquyển, dặn hãy phân phát cho các học sinh. Sau đấy nhận được thư của ông tatrách tôi hủ bại, viễn vông, còn nói đã đem những sách ấy xếp xó. Chưa đầy haingày sau, sai người đến nói: “Nguyện in năm trăm quyển”. Tôi vin vào lời ông tađã nói trước đó để khước từ. Sau đấy, ông ta lại sai người cầm thư tay khẩn khoản[cậy in], mới biết ông ta mộng thấy cha tha thiết dặn dò: “Mày không in tặng BấtKhả Lục, con mày làm sao có thể vào trường huyện cho được?” Do vậy, nhờ tôiin một ngàn quyển để truyền bá rộng rãi. Theo như ông ta nói, hôm nhận đượcthư báo tin con được nhập học chính là ngày ông ta phát nguyện in sách, linhnghiệm dường ấy!* Tại Tân Kiều thuộc thành Hàng Châu, vị tăng Tĩnh Duyên thuộc TíchThúy Am thích làm lành. Một ngày, trời đổ tuyết lớn, sư đến gõ cửa. Tôi tưởng làsư đến quyên mộ, thưa: “Nhà tôi nghèo hèn, không có sức giúp đỡ!” Sư bảo: “Tôixin mượn ván in sách Bất Khả Lục để in ra mấy ngàn quyển hòng thí tặng”. Tôivui vẻ nhận lời, gạn hỏi: “Do vì lẽ nào mà thầy đột nhiên dấy lên ý niệm này độituyết đến đây?” Sư bảo: “Đêm qua, tôi mộng thấy thổ thần bảo: ‘In tặng Bất KhảLục có thể tránh khỏi tai nạn lớn’. Sáng nay hỏi thăm thí chủ khắp nơi, mới biết[sách ấy] vốn là bản được tàng trữ tại Đàm Phủ nên đặc biệt đến mượn”. Sau khisư đã in tặng, năm sau, nơi sư ở bị hỏa hoạn, chung quanh đều cháy rụi, chỉ riêngam của sư không sao, càng tin thần minh khuyến thiện rành rành chẳng sai. (TrầnHải Thự ghi).* Đầu mùa Hạ năm Canh Ngọ, đêm mộng thấy hai đồng tử đến bảo tôi: “VănXương Đế Quân có lời mời ông”. Do vậy, cùng đi. Họ dẫn tới một tòa nhà thuộcTrung Thúy Đình, thấy biển đề là Đại Động Các. Tôi theo đồng tử tới đại điện,thấy Đế Quân ngồi chính giữa, tôi khấu đầu rồi đứng hầu. Đế Quân bảo: “Thếgian tặng thiện thư rất nhiều, chỉ có Bất Khả Lục là từ lâu chưa được lưu hành.Ông hãy vì ta lưu thông rộng rãi”. Ngài liền sai hai đồng tử khiêng ra một cáirương, trong ấy đều là những trang giấy rách nát. Kiểm xem thì ra là những bảntàn khuyết của Bất Khả Lục. Trong khi tôi đang suy nghĩ, chưa từng thấy sáchnày, làm sao thực hiện được? Đế Quân lại khuyên dụ rằng: “Kỳ thi Hương đã gầnkề, hãy nên làm cho gấp”. Ngài truyền hai đồng tử đưa tôi ra về, bèn tỉnh giấc.Hôm sau, truy tìm tại các xưởng in, họ đều nói không biết. Mất hơn một tháng,chợt có người đem bản in Bất Khả Lục đến bán. Trang đầu tiên ghi lời tựa đã mất,coi trang cuối, biết đó là bản in của tiên sinh Vạn Cửu Sa, hết sức vui mừng, mualấy, liền in ra ba ngàn quyển. Sáng mồng Một tháng Bảy, kiền thành đem sáchđến viện Thúy Đình. Vừa mới đến cổng, một vị tăng liền mau mắn hỏi: “Có phảilà Trần cư sĩ đến tặng Bất Khả Lục hay không?” Tôi thưa vâng, hết sức ngạcnhiên. Tiến vào đại điện dâng hương, khấu trình dưới tòa của Đế Quân. Vị Tăngmời vào khách đường dùng trà. Hỏi pháp danh thì ra là Nguyên Bổn. Hỏi vì saobiết tôi đem sách đến tặng, lại còn biết tên sách? Tăng bảo: “Đêm qua nằm mộngthấy Đế Quân dặn tôi chờ ở cửa nhận sách, nên đã dậy từ sớm để chờ”. Tôi càngthêm tôn kính. Có thể biết là thiện thư lưu hành trong cõi đời, trên là có thể cảmthấu trời cao, mà người tận lực dùng thân thực hiện những điều chỉ dạy trong sách,công đức ấy chẳng thể lường được! Kính mong [mọi người] hãy cùng thấu hiểunỗi khổ tâm cứu đời của Đế Quân hòng cùng lên bè báu. Ngưỡng mong hãy lưutruyền rộng rãi, ngõ hầu khắp cõi đời tận lực kiêng tránh những điều chớ nên, tậnlực thực hiện những điều nên làm, hòng chẳng phụ sự phó thác của thần minh vậy.Tháng Sáu năm Canh Ngọ (1810) niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, cổ diêmquan Trần Hải Thự tự ghi* Năm Bính Tuất, em gái tôi sau khi về nhà chồng, bỗng mắc chứng đàmgiản, thường khóc lóc, chẳng ăn uống được. Có người nói là do phạm phải HoaPhấn Sátmà ra, cầu cạnh thầy đồng cầu cúng, hóa giải trăm cách đều chẳng cócông hiệu gì. Cô ta lại chẳng chịu uống thuốc. Cả mấy người dốc hết sức, rốt cuộccô ta khó nuốt trôi một giọt thuốc. Cho đến sau nửa năm, thân gầy như que củi,bố mẹ hết sức lo lắng, muôn phần lo nghĩ. Do vậy, tôi đối trước tượng Phong ĐôĐại Đế và thần Thành Hoàng, dâng sớ hứa in tặng năm ngàn quyển Bất Khả Lục.Sau khi đã hứa nguyện, rốt cuộc có chuyển biến, cô ta bèn chịu uống thuốc. Vìthế, uống liên tục thuốc tiêu đàm, một tháng sau, bình phục như thường. Nghiệpđã tiêu trừ. Sau một năm nữa, cảm thấy thân thể khỏe mạnh như trước. Vì thế, tôidùng bản in theo lối chữ rời, sắp chữ đúng số lượng đem in để đáp tạ sự gia hộcủa thần. Kính cẩn ghi sự linh nghiệm vào đây.Tháng Ba năm Mậu Tý (1888) niên hiệu Quang Tự đời Thanh, kẻ học tròhối lỗi ở hạ quận Lâu Đông kính ghi.Đàm giản là một chứng bệnh kinh phong, co giật, do bệnh nhân có nhiều đàm, hay cogiật, nên gọi là đàm giản.Hoa Phấn Sát (花粉煞) là một thuật ngữ trong Đạo giáo. Các nhà Phong Thủy cho rằngnếu phòng ở có kèo cột chạm trổ, sơn vẽ quá nhiều, quá rườm rà, người sống ở trong đósẽ bị xui xẻo, bệnh tật quái lạ.Tích tự cận chứng(Chứng cứ gần đây về quả báo do tiếc chữ)Để khắc in sách vở, thời cổ dùng hãn giản, về sau biến thành dùng gỗ câydó [làm giấy] và mực. Lại biến đổi thành khắc ván, khiến cho [việc ấn loát] kháthuận tiện, văn tự được lưu thông càng rộng rãi hơn. Phương pháp khắc ván làtrước hết dùng giấy để viết lại [văn bản muốn in], dán lên tấm gỗ, sau đó chà sátmặt sau giấy, khiến cho chữ dính vào ván [rồi thợ sẽ khắc chữ theo những chữấy]. Giấy bị chà bỏ ấy vẫn còn hình dạng chữ viết, chớ nên khinh nhờn, làm bẩn.Vào mùa Thu năm Ất Sửu (1805) đời Gia Khánh, tại cầu Bảo Hựu thànhHàng Châu, có người thợ khắc họ Kim, trong khi bị bệnh, thấy hai con quỷ bắtđi, dẫn đến bái yết một vị thần trong đại điện. Thấy thần giống như một vị quansang trọng. Thần bảo: “Ngươi làm ô uế giấy có chữ, theo pháp, phải trách phạtnặng nề”. Họ Kim thưa: “Con do nghề nghiệp, chẳng thể không làm như vậy”.Thần dạy: “Nếu chẳng phải là như vậy thì trong khi ngươi chà giấy, những mảnhgiấy rớt xuống hãy nên thu nhặt, đặt ở chỗ sạch, khi nào có dịp sẽ đốt đi. Chứngươi vẫn quăng lung tung nơi bậc thềm, thậm chí quăng vào đống rác, khôngchỗ nào chẳng có, chẳng phải là ô uế, khinh nhờn thì là gì?” Họ Kim không nóigì được nữa, đành chịu phạt. Đến khi tỉnh giấc, mông và đùi đau đớn quá mức.Ôi! Thần răn nhắc thiết tha, lại vì người làm nghề ấy, mở ra một pháp môn nhằmtiêu trừ đầu mối gây nên tội, người ta còn sợ gì mà chẳng phụng hành ư? Do vậy,chép lại chuyện này, xếp vào trang cuối của [bộ Bất Khả Lục], nguyện nhữngngười làm nghề khắc chữ, thấy chuyện này như vết xe đổ trước để răn dè, kínhcẩn tuân theo lời thần dạy thì may mắn lắm thay.Trần Hải Thự ghiHẾT171 Hãn giản (汗簡) là những thanh tre tươi, hơ nóng qua lửa cho chảy nhựa, rồi dùng daokhắc chữ lên. Thuở trước khi chưa phát minh ra giấy, cổ nhân dùng phương pháp này đểghi chép sử sách.138Nguyện đem công đức nàyTrang nghiêm Phật Tịnh ÐộTrên đền bốn ân nặngDưới cứu khổ tam đồNếu có ai thấy ngheÐều phát lòng Bồ ÐềHết một báo thân nàyCùng sanh cõi Cực Lạc☟
Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2020
tho khang bao giam
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét