Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2020

tho khang bao giam

 




















➔ Download MP3


  1. KHAI THỊ NGHIỆP DÂM DỤC - VÀ THÙ DÂM Ấn Quang Đại Sư 02:28:28
  2. KHAI THỊ VỀ NGUY HẠI CỦA THỦ DÂM - quả báo thủ dâm rất nguy hại 01:28:47
,

                 



THỌ KHANG BẢO GIÁM .PDF

➔ Download  PDF

 ➔ Download  PDF

 ➔ Download  PDF




THỌ
KHANG BẢO GIÁM
"Hãy nên lấy Thọ Khang Bảo Giám làm sách giữ
gìn tánh mạng cho con em đã hiểu chuyện đời.
Chẳng những thanh niên phải nên xem, ngay cả
người già cũng nên đọc. Muốn con em được
trường thọ phải hoàn toàn cậy vào người cao
tuổi thường nói đến chuyện họa - phước."
Ấn Quang Ðại Sư
(1862-1940)
Thọ Khang Bảo Giám 
Bộ sách này rất cần thiết cho giới trẻ hiện thời. Bởi đời
sau, chẳng những đạo luật của quốc gia không hề đề cập đến,
ngay cả cha mẹ đối với con cái của mình cũng không giảng
nói đạo lý giới-dâm bảo toàn sanh mạng, khiến cho rất nhiều
thanh thiếu niên bởi vì vô tri tham dâm mà đoạn mất đi tánh
mạng quý giá. Quả thực đáng buồn! Hy vọng khi mọi người
gặp được quyển sách này, đọc tỉ mỉ cũng như triển khai lưu
thông, thường xuyên cảnh tỉnh bản thân và khuyên bảo
những người xung quanh mình. Nếu như không mang
những đạo lý này nhắc nhở người đời, tức thời lỡ mất công
từ bi cứu độ của Phật [như lai] vậy!
Đôi lời bày tỏ
https://bothiphap.blogspot.com/
Ấn Quang đại sư
 tăng đính
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(theo bản in của Giai Phương Ấn Loát Hữu Hạn Công Ty, năm 1991)
Giảo duyệt: Đức Phong và Huệ Trang
 Đại sư Ấn Quang sinh ngày 11 tháng 1 năm 1862, mất ngày 2 tháng 12 năm 1940, được
tôn xưng là Tổ thứ 13 của Tịnh độ tông Trung Hoa, có nhiều cống hiến quan trọng trong
việc chấn hưng Phật giáo tại Trung Hoa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói riêng. Đại sư
ở nhiều tác phẩm khác cũng thường ký tên là Cổ Tân Thường Tàm Quý Tăng Thích Ấn
Quang (古莘常惭愧僧释印光). Ngài biết trước ngày viên tịch, cho mời bốn chúng đệ tử cùng
tụ tập và hết lời khuyên dạy phải tin sâu pháp môn niệm Phật. Sau đó ngài ngồi xuống
trong tư thế kiết già, cùng đại chúng niệm Phật trong chốc lát rồi an nhiên viên tịch. Người
đương thời tin rằng ngài là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí.
THỌ KHANG
BẢO GIÁM

LỜI MỞ ĐẦU
Con người từ sắc dục mà sanh, cho nên tập khí này đặc biệt
sâu đậm. Hễ không kiêng dè cẩn thận, phần nhiều sẽ đến nỗi chết
vì sắc dục! Các bậc thánh vương thời cổ vì yêu thương dân, cho
nên đối với chuyện vợ chồng ân ái, chẳng tiếc công sai quan
truyền lệnh, dùng linh gỗ đi khắp các nẻo đường, ngõ hầu người
dân khỏi phải sầu lo vì trót lầm lẫn mà mất đi tánh mạng. Lòng
từ ái ấy đúng là khôn xiết! Cho đến đời sau, không chỉ chánh
lệnh của nước nhà chẳng còn nhắc đến, ngay cả cha mẹ cũng
chẳng bảo ban con cái, đến nỗi đại đa số thiếu niên do lầm lạc
mà mất đi tánh mạng, đáng buồn quá sức! Bất Huệ sống trên cõi
đời mấy chục năm, thấy nghe khá nhiều, khôn ngăn bi thương!
Do vậy, quyên mộ in cuốn sách này để mong những người cùng
hàng đều được sống lâu, mạnh khỏe. Mong sao những người có
được cuốn sách này, ai nấy đều đọc kỹ, xoay vần lưu thông, đừng
để phí tâm tư, tiền tài, mà trọn chẳng được mảy may lợi ích thật
sự nào, thì may mắn lắm thay!
Mỗi người đều hy vọng bản thân và con cái khỏe mạnh
trường thọ, hạnh phúc mỹ mãn. Nhưng nếu như trong những
chuyện sắc dục này không biết kiêng kỵ, không biết tiết-chế,
không biết thận trọng. Tức thời chỗ hy vọng và đạt được sẽ hoàn
toàn trái ngược nhau. Há chẳng đáng buồn, đáng đau xót ư! Cho
nên Khổng Tử nói: “Thời kỳ thiếu niên, huyết khí chưa định,
không được phép phạm sắc-dục”. Mạnh Tử nói: “Phương pháp
dưỡng tâm tốt nhất không gì qua được thiểu dục (ít dục). Người
ít dục tuy cũng có đoản thọ, nhưng rất ít; người nhiều dục tuy
cũng có trường thọ nhưng cũng rất ít.” Vì vậy có thể nói, sinh tử
tồn vong của con người quá nửa quyết định bởi lòng dâm dục
nhiều hay ít. Bất huệ [Ấn Quang] tôi tuy chẳng có năng lực cứu
thế, nhưng lại thường hy vọng thế nhân đều có thể khỏe mạnh
sống lâu, bèn bổ sung hiệu đính và biên tập đồng thời khắc bản
 Trong thiên Nguyệt Lệnh sách Lễ Ký có chép: “Quý Xuân, tiên lôi tam nhật, tù nhân dĩ
mộc đạc, tuần vu đạo lộ, viết: - Lôi tương phát thanh, hữu bất giới kỳ dung chỉ giả, sanh
tử bất bị, tất hữu hung tai” (Cuối Xuân, trước khi sấm động ba ngày, viên quan truyền
lệnh liền khua linh gỗ, đi khắp các nẻo đường truyền lệnh: ‘Sắp có sấm động, kẻ nào chẳng
kiêng ăn nằm thì sanh con chẳng toàn vẹn, ắt sẽ bị tai nạn hung hiểm’).
vi
lưu hành cuốn sách này, hy vọng những người biết yêu mến bản
thân và yêu thương con cái nhà mình, có thể đem cuốn sách này
đọc kỹ. Đối với quan hệ lợi hại giữa sắc dục với khỏe mạnh và
thọ-yểu, sáng như ban ngày, mà còn có thể dạy bảo con cái trong
nhà, khuyên bảo thân hữu bên ngoài. Mặt khác, tôi còn nguyện
cầu cho cuốn sách này có thể lưu thông rộng khắp ở thế gian.
Khiến cho hết thảy mọi người đều trường thọ khỏe mạnh. Đây là
hương lành mà tôi cầu chúc.
vii
Những lời khai thị của Ấn Quang Đại Sư
(1) Trong cõi đời gần đây, bọn thiếu niên do tình dục quá nặng, nên
buông lung chơi bời, hoặc mê mệt thê thiếp, hoặc do ý chuyên nghĩ
đến điều dâm mà tinh thần ngầm bị tổn thương, hoặc thủ dâm để rò
rỉ, phung phí thứ quý báu nhất. Do vậy, thân yếu, tâm hèn, chưa già
đã suy; học vấn, sự nghiệp đều chẳng thành tựu. Thậm chí con cái
sanh ra đều bấy bớt hoặc khó khôn lớn, thành người được! Mà thọ
mạng của chính mình cũng khó thể dài lâu như trong số mạng đã
định, chẳng đáng buồn ư? (Hoằng Hóa Nguyệt San kỳ thứ hai - Ấn Quang
Văn Sao Tam Biên, Quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Vĩnh Nghiệp)
(2) Tám chữ “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” chính là quy củ, mực
thước để làm người. Nếu ai chẳng tận sức nơi tám chữ ấy chính là đã mất đi tám
chữ. Tám chữ đã mất thì là loài cầm thú đội mũ mặc áo! Người tuổi còn trẻ thì cái
khó chế ngự nhất là tình dục. Thế đạo hiện thời chuyên lấy việc hướng dẫn khêu
gợi dâm dục làm mục đích. Các con tuy có âm đức của tổ tiên, chẳng đến nỗi sa đà
lắm, nhưng cần phải dè dặt tự giữ gìn mới hòng chẳng thẹn với cha ông. Nếu
chẳng dốc sức tạo lập phẩm hạnh, bị dâm dục khống chế, sau này quyết định chẳng
có thành tựu, hoặc đến nỗi đoản mạng mà chết. Nay ta gởi cho các con hai bộ Lịch
Sử Thống Kỷ – đây là những chuyện nhân quả báo ứng rõ ràng trích từ hai mươi
bốn bộ sử ra, hai cuốn Gia Ngôn Lục – đây chính là đạo trọng yếu để học Phật, là
quy củ thường hằng để tu thân, hãy nên đọc kỹ!
Câu “nam-mô A Di Đà Phật” như đã nói chính là diệu pháp để tiêu nghiệp
chướng, chuyển phàm thành thánh, nếu có thể thường niệm thì tâm địa tự nhiên
mở mang, thông suốt, tri kiến tự trở về chánh lý, học hành, làm việc đều có lợi ích
lớn. Huống hồ nay đang lúc thế đạo hoạn nạn, niệm Phật sẽ có thể gặp dữ hóa
lành, gặp nạn trở thành chuyện may, lợi ích chẳng thể nói trọn hết, các con hãy
nên hành theo Gia Ngôn Lục. Đọc Thọ Khang Bảo Giám, Thanh Niên Bảo Thân
v.v… thì chẳng đến nỗi buông lung theo tình dục hoặc thủ dâm. Thiếu niên hiện
thời quá nửa mắc chứng thủ dâm. Đấy thật sự là một con dao thật sắc giết hại cái
thân vậy, hãy nên đau đáu răn dè!
Anh các con là Đức Tấn mong mỏi các con sẽ do Phật pháp mà giữ vẹn hạnh
nhà Nho, đã sớm xin Quang viết thư khuyên lơn các con. Quang sợ các con bị
nhiễm theo trào lưu thời thượng, trái nghịch với Phật, uổng phí tâm ta, vô ích cho
các con, nên không viết thư ngay. Nay các con đã biết tấm lòng sâu đậm của anh
mình, gởi thư xin dạy dỗ, nên ta chỉ nói những điều khẩn yếu. Những điều khác
hãy tự mình chịu tận lực thực hiện, lâu ngày sẽ chẳng khó gì mà dần dần biết được! Phải biết con người và trời đất cùng xưng là Tam Tài. Trời đất cao dầy ai
có thể biết được; con người với tấm thân sáu thước sao lại có thể cùng trời cao
đất dầy khôn lường cùng xưng [là Tam Tài] cho được? Ấy là vì con người có thể
kế tục bậc thánh đời xưa, mở lối cho hàng hậu học đời sau, dự phần vào cuộc sanh
thành, dưỡng dục của trời đất vậy.
Con người không thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà,
giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành thì đã mất cái danh
nghĩa con người, huống hồ kẻ chuyên ôm lòng mưu mẹo, dối trá, ỷ mạnh nuốt yếu
ư? Người như thế còn thua kém sài lang, hổ, báo, rắn độc, rết dữ nữa, còn có thể
gọi là người được ư? Thường nghĩ đến lời ta đừng quên thì sẽ dần dần tự có thể
dự vào bậc thánh, hưởng được phước nhân từ, sống thọ. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao
Tục Biên, Quyển Thượng, Trả lời thư cư sĩ Ninh Đức Hằng và Ninh Đức Phục)
(3) Đối với lớp hậu sinh trong hiện thời, khi chúng nó vừa hiểu chuyện đời,
liền dạy chúng nó về đạo giữ tinh, hộ thân. Nếu chúng nó biết tốt - xấu, sẽ chẳng
đến nỗi tự xem thủ dâm là vui, để rồi mắc các nỗi họa như bị mất tánh mạng, hoặc
trở thành tàn phế, hoặc vĩnh viễn truyền lại nòi giống yếu ớt v.v… Với đứa chưa
hiểu chuyện đời, chớ nên nói. Còn đứa đã hiểu chuyện đời nếu chẳng nói thì trong
mười đứa hết chín đứa phạm phải tật này, đáng sợ vô cùng!
 Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo hiếu, Khổng Tử dạy: “Phụ mẫu duy kỳ tật nhi ưu”
(Cha mẹ chỉ lo về tật ấy). Những tật khác đều không quan hệ lắm. Chơi bời bừa
bãi, thủ dâm, tham ân ái, quả thật là chuyện khẩn yếu, quan trọng nhất! Vì thế,
Khổng Tử mới nói đến điều này, nhưng người chú giải chẳng chịu nói rõ chỗ tai
hại nhất, khiến cho lời của Khổng Tử cũng chẳng có hiệu quả thật sự, đáng than
thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, Quyển Hạ, Thư trả lời cư sĩ Niệm Phật)
(4) Nay gởi cho ông một bộ Lịch Sử Thống Kỷ, hai cuốn Thọ Khang Bảo Giám,
ba cuốn Gia Ngôn Lục. Thống Kỷ thì ông tự giữ để biết [cõi đời] bình trị hay loạn
lạc, biết gương nhân quả. Thường xem Thọ Khang Bảo Giám thì chẳng đến nỗi
phạm tà dâm và thủ dâm v.v... tự hại cuộc đời, tự hao phước thọ, chẳng bị tàn phế
và chết chóc. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, Quyển Thượng, Thư trả lời cư sĩ Từ Thư Dung)
(5) Tuổi con còn thơ ấu, phải cực lực chú ý giữ gìn thân thể! Hãy đọc kỹ sách
Dục Hải Hồi Cuồng trong bộ An Sĩ Toàn Thư và Thọ Khang Bảo Giám. Có nhiều
thiếu niên ý niệm tình dục dấy lên rồi bèn thủ dâm; chuyện ấy khiến thân thể bị
tổn thương tột cùng, chớ nên phạm! Hễ phạm sẽ tàn hại thân thể, nhơ bẩn tự tâm,
khiến cho thân thể hữu dụng bị chết yểu hoặc trở thành phế nhân yếu ớt không
làm nên cơm cháo gì! Lại còn phải hằng ngày phản tỉnh, suy xét tội lỗi nơi thân,
nơi tâm, ngõ hầu chẳng đến nỗi tự mình tàn hại. Nếu không, cha mẹ không nói, sư trưởng chẳng nói, bạn bè đàn đúm xúi giục nhau tạo thành thói ác ấy; chuyện
này nguy ngập còn hơn đi vào vực sâu, bước trên băng mỏng đấy!
Tăng Tử có tư cách đại hiền mà đến lúc sắp chết mới nói: “Kinh Thi chép: ‘Dè
dặt kinh sợ, như vào vực sâu, như đi trên băng mỏng’. Từ nay trở đi, ta biết đã
thoát”. Chưa đến lúc sắp chết thì vẫn thường kinh sợ, nay ta sắp chết mới biết
mình không bị hãm [trong tội lỗi]. Cừ Bá Ngọc năm hai mươi tuổi biết mười chín
năm trước sai trái; đến tuổi năm mươi, biết bốn mươi chín năm trước đều sai.
Khổng Tử vào tuổi bảy mươi còn muốn trời cho sống thêm vài năm hoặc dăm
mười năm nữa để học kinh Dịch hòng tránh lỗi lớn. Cách thánh hiền gìn giữ,
trưởng dưỡng sự phản tỉnh, suy xét như vậy chính là nền tảng để học Phật liễu
sanh tử. Những điều khác đã được nói tường tận trong Văn Sao và các sách khác,
cho nên không viết cặn kẽ! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 1, Thư trả lời cư sĩ
Từ Chí Nhất)
(6) Con em thông minh trong thế gian khi bước vào tuổi dậy thì, do cha, mẹ,
anh hay thầy chẳng dạy rõ lợi - hại đến nỗi vì thủ dâm hoặc tà dâm mà mất mạng
đến quá nửa. Dẫu chẳng chết ngay cũng sẽ thành tàn phế, không có thành tựu gì.
Ông đã bị hại sâu xa, hãy thường nên giữ lòng nghiêm cung kinh sợ, chớ để một
niệm nghĩ tới nữ sắc. Hãy nỗ lực tu pháp môn Tịnh Độ, lâu ngày chắc sẽ mạnh
khỏe. Ông đã lấy vợ hay chưa? Nếu chưa, hãy nên đợi vài năm nữa rồi mới lấy vợ.
Nếu đã có vợ rồi thì hãy nói rõ với vợ, nhằm dưỡng thân thể, ở riêng phòng khác,
coi nhau như khách, quyết chẳng coi nhau như vợ chồng. Đôi bên khuyên nhủ lẫn
nhau, chớ móng tưởng một niệm nghĩ đến chuyện ăn nằm. Đợi đến khi thân thể
hoàn toàn mạnh mẽ rồi, hoặc mỗi năm chung đụng một lần, hoặc mỗi quý (ba
tháng) chung đụng một lần. Nếu thường ân ái sẽ bị lại bệnh cũ. Hãy nên nói với
hết thảy những kẻ thiếu niên về họa hại này để vun bồi phước cho chính mình
(Những đứa chưa hiểu biết đừng nói chuyện này. Với đứa đã hiểu biết hãy nên
cực lực nói về sự họa hại). (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 1, Thư trả lời cư sĩ
Tôn Nghệ Dân)
(7) Gần đây người ta hay bị bệnh phổi, Quang chẳng nghĩ như vậy là bình
thường! Người đời sau nghiệp nặng, dậy thì sớm, mười một mười hai tuổi đã có
dục niệm. Dục niệm đã dấy lên, không có cách gì kiềm chế, lại chẳng biết nghĩa lý
giữ gìn thân thể nên bèn dùng đến cách thủ dâm. Như cây cỏ vừa mới nẩy mầm
liền bị bẻ chồi, ắt phải khô héo. Con em thông minh do vậy mất mạng chẳng biết
là bao nhiêu! Dẫu chẳng đến nỗi chết ngay lập tức thì thân thể yếu đuối, không
nên cơm cháo gì! Đến khi lớn lên cưới vợ, cha mẹ, sư trưởng tuyệt chẳng nói đến
đạo tiết dục, giữ gìn thân thể. Vì thế, quá nửa bị bệnh chết đều do thủ dâm và tham
ăn nằm mà ra!
Do vậy, Khổng Tử đáp lời Mạnh Vũ Bá hỏi về đạo hiếu rằng: “Phụ mẫu duy
kỳ tật chi ưu” (Cha mẹ chỉ lo lắng về tật ấy), chính là dạy phải kiêng ăn nằm. Chẳng
kiêng ăn nằm thì trăm bệnh đua nhau phát ra, có thể kiêng ăn nằm thì giảm bớt
bệnh tật nhiều lắm! Mạnh Tử nói: “Dưỡng tâm giả (do kẻ khéo dưỡng thân ắt phải
nhờ vào chế ngự tâm chẳng cho dục niệm khởi lên, nên gọi là “dưỡng tâm”) mạc
thiện ư quả dục. Kỳ vi nhân dã quả dục, tuy hữu bất tồn yên giả, quả hỹ. Kỳ vi nhân
dã đa dục, tuy hữu tồn giả, quả hỹ” (Dưỡng tâm thì không gì hay bằng ít ham
muốn. Ai làm người mà ít ham muốn, tuy tâm người ấy có những điều không hợp
đạo nghĩa, nhưng những điều ấy cũng ít. Ai làm người mà lắm ham muốn, tâm dù
có giữ được đạo nghĩa thì đạo nghĩa ấy cũng chẳng được mấy).
Cổ nhân trọng sanh mạng người dân, thiên Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Ký
chép: “Trọng Xuân tiên lôi tam nhật, tù nhân dĩ mộc đạc tuần ư đạo lộ viết: ‘Lôi
tương phát thanh, kỳ hữu bất giới kỳ dung chỉ giả (tức phòng sự) sanh tử bất bị,
tất hữu hung tai” (Ba ngày trước khi sấm động vào lúc giữa mùa Xuân, viên quan
chấp lệnh cầm mõ gỗ đi khắp nẻo đường rao truyền: ‘Sấm sắp rền, kẻ nào chẳng
kiêng ân ái (tức ăn nằm) sẽ sanh con chẳng vẹn toàn, ắt có tai nạn hung hiểm) (tức
là chân tay, thân thể chẳng trọn vẹn, hoặc sanh ra quái thai, hoặc vợ chồng bị chết,
hoặc bị bệnh ngặt nghèo, nên nói là “ắt có tai nạn hung hiểm”). Đấy là chánh lệnh
của quốc gia. Nay thì cha mẹ, sư trưởng, trọn chẳng nói với con cái về chuyện này.
Đến khi đã ngã bệnh, thầy thuốc cũng chẳng bảo kiêng ăn nằm. Ấy là vì chẳng coi
mạng người là trọng, chỉ mong người ta bệnh ngày càng nặng để phải chữa trị
nhiều hơn! Thầy thuốc dụng tâm như thế, tội khác nào bọn cường đạo chặn đường
cướp của! Bệnh của ông bất luận là do nguyên nhân nào phát sanh, đều nên lấy
việc đoạn hẳn chuyện ăn nằm làm phương sách để mau được lành bệnh. Đợi đến
khi hoàn toàn bình phục rồi, hoặc mỗi năm chung đụng một lần, hoặc mỗi quý (ba
tháng) một lần để mong chẳng lỗi đạo “tiếp nối đời trước, mở ra đời sau”, đừng
thường xuyên ân ái, sẽ sanh được con cái thể chất khỏe mạnh, tánh tình từ thiện,
thọ mạng dài lâu, vẻ vang nhiều lắm!
Quang đưa cho vị Sư [mang thư ông tới đây] một cuốn Thọ Khang Bảo Giám
[nhờ trao lại cho ông], văn lẫn lý trong cuốn sách ấy đều đáng tuân theo. Chỉ có
điều trong những ngày kiêng ăn nằm, [ngày vía] của những vị [thần thánh] có
thần thông nhỏ nhoi cũng đều kể vào, dường như không thích đáng lắm. Nhưng
đối với chuyện “[ngày vía của] đại quỷ thần thì nên kính, chứ [đối với ngày vía
của] tiểu quỷ thần nếu chẳng kính sẽ do vậy mà bị chuốc họa”, hãy đừng nên bàn
luận bừa bãi thì may mắn lắm thay! Dùng điều này để tự lợi mà cũng dùng những
điều này để lợi tha. Do vậy, tự tu Tịnh nghiệp sanh về Tây Phương giống như trao
bằng khoán chuộc lại vật cũ. Nữ nhân cũng thế! Ai muốn tiết dục ắt trước hết phải
nói nguyên do với vợ sẽ chẳng đến nỗi [gia đình] bị lục đục. Trong đời có những kẻ thanh xuân chôn chồng, nguyên nhân quá nửa là vì chẳng khéo tiết dục mà ra!
So với cảnh giữ phòng không ở góa, sao bằng tiết dục để được tề mi giai lão
chẳng hay hơn ư? Đây là đối với nữ nhân mà nói. Đàn ông cũng nên biết những
chuyện kiêng kỵ có liên quan đến tánh mạng của nữ nhân, đấy chính là người phối
ngẫu có đức hạnh hằng nâng đỡ, tạo lợi ích cho nhau. Quang ăn nói dài dòng chỉ
vì bi tâm tha thiết, có lẽ đã gây nhàm tai người nghe!
Tịnh Độ Ngũ Kinh là căn bản của pháp môn Tịnh Độ. Hãy đọc kỹ lời tựa, sẽ
tự biết được những ý chánh. Tịnh Độ Thập Yếu là trước thuật thiết yếu nhất của
Tịnh Độ. Quan trọng nhất là sách Di Đà Yếu Giải, là bản chú giải tuyệt diệu nhất
của kinh này. An Sĩ Toàn Thư là sách đứng đầu các thiện thư. Cảm Ứng Thiên
Trực Giảng dùng chữ đơn giản, dễ hiểu nhưng không dung tục, kẻ nhã người tục
cùng xem đều được lợi ích. Ấn Quang Văn Sao văn tuy vụng về, chất phác, nhưng
nghĩa lý chấp nhận được. Noi theo những điều được sách này đề xướng chắc chắn
chẳng bị chê là trái luân thường, gây rối đất nước. Hãy nên lấy Thọ Khang Bảo
Giám làm sách giữ gìn tánh mạng cho con em đã hiểu chuyện đời. Chẳng những
thanh niên phải nên xem, ngay cả người già cũng nên đọc. Muốn con em được
trường thọ phải hoàn toàn cậy vào người cao tuổi thường nói đến chuyện họa -
phước. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Chân Tịnh)
(8) Năm mười bốn, mười lăm tuổi, ông đã phung phí nguyên khí, mười năm
qua dâm dục vô độ, tinh thần bị tổn thương kể sao cho xiết? Huống chi lại có hai
người vợ trẻ! Nếu chẳng biết tiết dục thì chẳng những không thể sanh con mà còn
đến nỗi đoản mạng chết yểu! Từ nay trở đi, hễ thấy phụ nữ của người khác hãy
tưởng như mẹ, chị, em, con gái; xem hai cô vợ của chính mình như đạo hữu. Ngày
thường niệm Quán Âm, đêm đừng ngủ chung với hai cô vợ. Dưỡng cho thân thể
được hồi phục mười phần rồi mới làm chuyện vợ chồng một lượt. Mỗi năm ăn ở
với hai bà vợ một lần thì tình cảm vợ chồng ổn thỏa, mà đôi bên đều chẳng bị tổn
thương, chắc chắn sẽ sanh được con cái mũm mĩm, thông minh, tâm tánh hiền
thiện, không bệnh, trường thọ, có thể làm rạng rỡ gia đình, làm khuôn mẫu cho
người trong một làng. Nếu coi chuyện ân ái là điều vui thú thì chuyện vui chưa
lâu, khổ lớn liền tới. Tinh khô, thân chết, không thuốc nào cứu được đâu!
Lại nên đem nghĩa này nói với hai người vợ, mọi người cùng giữ điều răn
cấm này thì sẽ có nhiều con cái tốt đẹp, ba người bọn ông hạnh phúc đến già, sống
thì hưởng Ngũ Phước, mất sẽ lên chín phẩm. Nay gởi cho ông một bộ An Sĩ Toàn
Thư, một cuốn Thọ Khang Bảo Giám, một cuốn Gia Ngôn Lục, một bộ Quán Âm
Tụng, một cuốn Sức Chung Tân Lương. Trong bộ An Sĩ Toàn Thư có bốn tác phẩm:
Đầu tiên là Âm Chất Văn Quảng Nghĩa giảng rộng về ý nghĩa “đừng làm các điều
ác, vâng làm các điều lành”; thứ hai là Vạn Thiện Tiên Tư [khuyên] kiêng giết; thứ
ba là Dục Hải Hồi Cuồng răn dâm; thứ tư là Tây Quy Trực Chỉ khuyên tu Tịnh Độ. 

Quán Âm Tụng giảng rõ cặn kẽ sự linh cảm của đức Quán Âm. Hễ đọc Thọ Khang
Bảo Giám sẽ chẳng dám không tiết dục. Gia Ngôn Lục giảng đầy đủ rõ ràng về
những điều quan trọng trong tu trì. Sách này trích lục những điều trọng yếu từ bộ
Văn Sao. Đọc Sức Chung Tân Lương sẽ có thể làm cho mẹ ông quyết định được
vãng sanh Tây Phương. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 2, Thư trả lời cư sĩ
Dương Chân)
(9) Con tuổi còn trẻ dại, phải hết sức chú ý giữ gìn thân thể, hãy nên đọc kỹ
cuốn Dục Hải Hồi Cuồng trong bộ An Sĩ Toàn Thư và Thọ Khang Bảo Giám. Có
nhiều thiếu niên khi ý niệm tình dục khởi lên bèn thủ dâm. Chuyện ấy gây tổn
thương thân thể cực lớn, chớ nên phạm. Hễ phạm chính là tự tàn hại thân mình,
nhơ bẩn tự tâm, khiến cho thân thể hữu dụng bị chết yểu, hoặc thành phế nhân
bấy bớt không nên cơm cháo gì! Hằng ngày phải phản tỉnh, quán sát tội lỗi nơi
thân tâm, ngõ hầu chẳng đến nỗi tự tàn, tự hại. Nếu không, cha mẹ chẳng nói, sư
trưởng không nói, bạn bèn đàn đúm xúi giục nhau đến nỗi thành ra thói ác ấy.
Nguy hiểm lắm, còn hơn vào vực sâu, đi trên băng mỏng!
Tăng Tử mang tư cách đại hiền mà đến khi sắp chết mới nói: “Kinh Thi chép:
‘Dè dặt kinh sợ, như vào vực sâu, bước trên băng mỏng’, từ nay trở đi, ta biết
thoát khỏi”. Chưa đến lúc sắp chết, vẫn thường dè dặt, kinh sợ, biết mình ắt có
chỗ thiếu sót. Nay sắp chết rồi, mới biết mình không thiếu sót! Cừ Bá Ngọc năm
hai mươi tuổi, biết mười chín năm trước sai trái; đến khi tuổi tròn năm mươi,
biết bốn mươi chín năm trước sai trái. Khổng Tử vào độ tuổi bảy mươi, vẫn mong
trời cho sống mấy năm nữa, hoặc dăm mười năm để học Dịch, ngõ hầu tránh khỏi
lỗi lớn. Đấy chính là cách dưỡng tâm giữ ý, phản tỉnh, quán sát của thánh hiền, là
cơ sở để học Phật liễu sanh tử vậy. Những điều khác đã nói tường tận trong Văn
Sao và các sách khác, nên không ghi cặn kẽ.
Con tên là Giám Chương, lại thêm có chánh trí huệ thì không gì chẳng hợp
với Phật, với thánh, không gì chẳng đúng pháp thế tục. Người đời nay hơi thông
minh bèn cuồng vọng. Đấy đều là chẳng biết nghĩa lý “vị học nhật ích, vị đạo nhật
tổn” (vì việc học [đạo đức] ngày càng tăng thêm, vì đạo [thói xấu] ngày càng giảm
bớt). “Vị đạo nhật ích” là đem đạo đức thánh hiền cất chứa trong thân tâm ta, “vị
đạo nhật tổn” là nghiêm túc phản tỉnh, quán sát, để khởi tâm động niệm trọn
chẳng có tội lỗi gì! Nếu không, chỉ là bậc văn tài lỗi lạc, đã chẳng thể vì việc học,
huống là vì đạo ư? Hiện nay thời cuộc nguy hiểm, hãy nên khuyên hết thảy già -
trẻ - trai - gái hằng ngày thường kiền thành niệm thánh hiệu Quán Âm để làm
thượng sách cầu hòa bình, giữ gìn thân mạng. Ngoài cách này ra, không còn tìm
được cách nào khác nữa đâu! (Ngày Hai Mươi Sáu tháng Bảy) (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, Quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Từ Giám Chương) 

(10) Lời di chúc khẩn yếu là giữ gìn thân thể. Tấm thân của ông quan hệ đến
cả nhà, cha ông đã ra ngoại quốc rồi. Trong nhà ông còn có mẹ, cậu em thứ hai và
cô em gái nhỏ đều trông cậy vào ông. Nếu ông chẳng biết thận trọng giữ thân, cả
nhà sẽ nguy lắm. Xét theo tánh cách của ông, cũng trọn chẳng đến nỗi dâm đãng,
nhưng trong vòng vợ chồng cũng nên điều độ, chớ nên mặc sức tham ưa khoái
lạc. Đối với những điều kỵ húy trong Thọ Khang Bảo Giám, hãy nên suy xét kỹ
càng, ghi nhớ. Cũng nên bảo Sư Thiệu đọc kỹ, ngõ hầu được sống hạnh phúc đến
già, cùng được sống lâu, khỏe mạnh.
Những kẻ thanh xuân ở góa trong cõi đời cũng như những người cưới vợ
chưa được mấy chốc vợ đã chết, mười phần hết tám chín là do chẳng biết tự thận
trọng đến nỗi uổng mạng! Há có phải mỗi trường hợp đều do bổn mạng từ lúc
sanh ra đã như thế ư? Nếu La Tế Đồng, thương nhân X… và đứa con của thương
gia Y… đọc kỹ Thọ Khang Bảo Giám, đã biết rành rẽ những điều kỵ húy, há có
chuyện bị chết ngay ư? Quang thương bọn họ vô tri, nên mới đặc biệt biên tập
sách này (đã in năm vạn cuốn). Sợ ông nghĩ “ta chẳng đến nỗi phạm tà dâm, cần
gì phải đọc sách ấy!” Vậy là sai lầm quá đỗi rồi! Hoàng đế Đồng Trị cũng do bệnh
chưa lành mà ân ái nên phải chết.
Chuyện này quả thật là đạo trọng yếu để giữ thân yên đời. Thuở xưa, hoàng
đế còn sai viên quan truyền lệnh dùng mõ gỗ đi khắp nẻo đường (tức đường sá,
ngõ ngách trong thôn làng) để bảo ban. Nay thì cha mẹ cũng chẳng bảo ban con
cái, đến khi con phạm phải những điều kỵ húy chết mất rồi, chỉ biết gào khóc, há
chẳng đáng buồn quá sức ư? Tôi có tình thâm giao với cha ông, mẹ ông mà vợ
chồng ông lại quy y [với tôi], tôi xem vợ chồng ông như con cái vậy. Vì thế mới
nói lôi thôi như thế này. Những vị thiện tri thức khác quyết chẳng nói đến chuyện
này, chẳng biết ông có nghĩ lời Quang là đúng hay không? Những điều khác đã có
trong kinh điển, nên Quang chẳng cần phải nói nữa! (Ngày mồng Hai tháng Hai
năm Kỷ Tỵ - 1929) (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 2, Thư trả lời cư sĩ Sư Khang)
(11) Ông nói năm sáu năm qua, từ sau khi ra trường, mắc bệnh xương khớp
rã rời, gần như đã chết một nửa người. Có phải vì [trong thuở còn đi học ấy] bạn
bè đàn đúm tụ họp, cùng nhau đọc tiểu thuyết đến nỗi chân tinh mất mát, thủ
dâm liên tục, do vậy mới có hiện tượng ấy hay chăng? Đấy chính là căn bệnh chung
của lũ học sinh trong hiện tại, trong mười đứa có đến tám chín đứa [vướng phải].
Do cha mẹ, thầy, bạn đều chẳng chịu nhắc đến, nên kẻ bị bệnh ngày thấy càng
nhiều, chẳng thể ngăn dứt được! Do chuyện này, Quang liền cho in tám trăm cuốn
Thọ Khang Bảo Giám. Hễ kẻ trẻ tuổi gặp Quang, Quang đều nói rõ lẽ lợi - hại với
họ, bảo họ giữ gìn thân thể đừng phạm. Dù là thủ dâm hay tà dâm đều phải
nghiêm túc kiêng dè, đừng phạm; ngay như vợ chồng ăn nằm với nhau cũng phải
có chừng mực, cũng như biết kiêng kỵ để khỏi đến nỗi bị mất mạng oan uổng! Nếu không, người cực tốt cũng vẫn có thể chết vì chuyện này. Xúm nhau đổ thừa cho
số mạng, chẳng biết tự mình đã nộp mạng!
Ông còn rất trẻ mà đã bị bệnh, hãy nên thường đọc sách ấy, cũng như bảo
Đức Chánh thường đọc. Đôi bên răn nhắc lẫn nhau, ngõ hầu những đứa con đã
sanh như Quân Tốn v.v… đều được mũm mĩm, trưởng thành, tánh tình hiền thiện,
vợ chồng ông sống hạnh phúc đến già, cùng sanh Tây Phương. (Ấn Quang Pháp Sư
Văn Sao Tam Biên, Quyển 3, Thư trả lời cư sĩ Ôn Quang Hy (thư thứ sáu) )
(12) Lại còn có Thọ Khang Bảo Giám đã giao cho thợ sắp chữ. Đợi khi sắp chữ
xong, sẽ cho in cùng lúc với Văn Sao. Sách này chính là bản tăng đính (mở rộng,
sửa chữa) cuốn Bất Khả Lục rồi đổi tên. Bọn thiếu niên hiện thời thường chẳng
biết cách giữ gìn thân thể, mặc sức theo đuổi sắc dục; do vậy mà chết chừng bốn
phần. Do ham sắc dục mà bị các thứ bệnh khác rồi chết cũng chiếm đến bốn phần.
Người trong cả cõi đời, trong mười phần có đến tám phần là do bị chết trực tiếp
hay gián tiếp bởi nữ sắc, cũng đáng thảm lắm!
Đừng nói chi kẻ buông lung tìm hoa kiếm liễu, ngay như trong tình vợ chồng,
những kẻ vì chẳng biết kiêng kỵ mà bị tử vong cũng chẳng biết đến mấy vạn! Trong
tháng Mười năm ngoái, do một đệ tử của Quang vì bị bệnh đã lâu, người thiếp bèn
cầu Phật, nguyện ăn chay suốt đời, ông ta không uống thuốc mà được lành. Khí
sắc của ông ta thuần tịnh rạng rỡ ít có ai bằng. Chưa được hơn một tháng, do
phạm phòng sự (ăn nằm) liền chết! Vì thế, tôi phát tâm in cuốn sách này để cứu
những kẻ chẳng biết kiêng kỵ khỏi phải bị chết. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên,
Quyển 3, Thư trả lời Phước Châu Phật Học Xã)
(13) Nay đem Vật Do Như Thử, Sức Chung Tân Lương, Thọ Khang Bảo Giám,
Tức Tai Khai Thị, Liễu Phàm Tứ Huấn, mỗi thứ hai cuốn, lèn chặt [thành một bưu
kiện]. Những thứ giấy dùng để chèn chỗ trống cũng đừng vất đi, bởi đấy chính là
Sớ Lễ Quán Âm Cầu Con và Ba Điều Trọng Yếu Để Cầu Con, cũng là bài văn có
quan hệ lớn lao cho hết thảy kẻ thanh niên. Bất luận già hay trẻ đều chớ nên không
biết! Nếu không, chẳng biết tiết dục mà mong sanh con thì chưa sanh được con
mà cha đã chết trước rồi! Hoặc mẹ do ân ái quá nhiều bị mắc bệnh lao sái, chẳng biết là
bao nhiêu!
Đồ Hữu Sanh khá thông minh. Những con em thông minh hiện thời phần
nhiều mắc bệnh thủ dâm, hãy bảo chúng nó đọc Thọ Khang Bảo Giám và Liễu
Phàm Tứ Huấn thì sẽ chẳng đến nỗi mắc phải những mối họa đau khổ như trở
thành tàn tật và đoản mạng mà chết. Xưa kia, thánh vương sai quan bố cáo
[khuyên mọi người không nên ăn nằm khi sấm sắp động vào đầu Xuân], nay thì
cha, mẹ, thầy, bạn nhất loạt chẳng nói đến chuyện này, cũng là do ác nghiệp của
mọi người cảm thành!

Có kẻ càng ngu hơn, hễ con cái bị bệnh liền cưới vợ cho nó; ý muốn cho con
mau được lành bệnh, thật ra là làm cho nó chóng chết! Chẳng đáng buồn ư? Một
người ở Hồ Nam có hai đứa con đều chết vì lý do này. Đứa con thứ ba mắc bệnh
vẫn muốn làm như thế, bị một người bạn quở trách mới thôi. Ấy chính là quả báo
do đời trước dụ dỗ kẻ khác chơi bời bừa bãi đến chết. Một đứa đã chết còn chưa
ngộ, hai đứa chết luôn mà vẫn chưa ngộ! Nếu không bị người bạn quở trách chắc
sẽ bị tuyệt tự! Rốt cuộc vì lẽ nào mà tâm kẻ ấy ngu như thế? Nếu không phải do
oán quỷ xui khiến, ắt chẳng đến nỗi ngu như thế! Xin hãy sáng suốt thì may mắn
thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, Quyển 3, Thư trả lời cư sĩ Tịnh Thiện (thư thứ ba)
(14) Nay gởi cho ông một bộ Văn Sao, một bộ An Sĩ Toàn Thư, một bộ Quán
Âm Tụng, hai cuốn Thọ Khang Bảo Giám, xin hãy đọc kỹ. Văn Sao thì chẳng những
tu trì Tịnh nghiệp có chỗ làm căn cứ nương tựa, ngay cả những cách xử thế, giữ
thân, tề gia, dạy con v.v… đều có nêu rõ. Trong đời hiện thời, ắt cần phải sốt sắng
đề xướng nhân quả báo ứng. Dạy con cố nhiên là nhiệm vụ trọng yếu, nhưng dạy
con gái càng quan trọng hơn dạy con trai, bởi lẽ con người lúc bé thường ở bên
mẹ, nếu mẹ hiền thì con cái cũng tự nhiên sẽ hiền. Do thường được un đúc nuôi
dạy đã tập quen thành thói, đến khi lớn lên được cha dạy dỗ sẽ thuận chiều chỉ
dạy, thật là dễ dàng. Đời hiện tại loạn đến mức như thế này đều là vì không có hai
thứ khéo dạy trên đây mà nên nỗi! Quang không có sức cứu vãn kiếp vận, nhưng
có tâm cứu đời, cho nên ở đây mới dài dòng một phen. Nếu chẳng cho lời bàn của
lão tăng là viễn vông, hủ bại thì may mắn lắm thay! (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục
Biên, Quyển thượng, Thư gởi cư sĩ Tự Giác)
(15) Khéo sao cư sĩ Bành Mạnh Am đưa truyện người con gái có hiếu ở Hồ
Nam cho đọc. Cô con gái có hiếu ấy chỉ biết có mẹ, người con gái tiết hạnh chỉ biết
đến nghĩa, sự sống chết của chính mình chẳng thèm màng đến nữa. Tuy đã thể
hiện gương táng thân vì mẹ, vì nghĩa, nhưng chẳng thể [dùng gương ấy để] răn
dạy người tầm thường được; tuy vậy, lòng thành tận hiếu, tận nghĩa, ngay đến cả
thiên địa, quỷ thần cũng bị cảm động, huống chi những người sẵn cùng một cái
tâm ấy ư? Những kẻ chẳng nghĩ đến ân dưỡng dục, tùy ý tự do luyến ái, thấy nghe
những chuyện này há chẳng thẹn muốn chết, do đó bèn đau đáu sửa đổi lỗi trước,
dốc lòng tu đức sau ư? Điều này liên quan đến thế đạo nhân tâm cũng lớn lắm.
Hơn nữa, tiết tháo như Tần Chiêu, ngay trong khi ấy mà giữ được lòng chẳng
loạn lại càng sâu sắc gấp trăm lần. Do [giữ cho] một lúc chẳng loạn thì dễ, nhưng
nhiều ngày chẳng loạn thì khó lắm. Huống chi ông Đặng X… đã nói: “Nếu chẳng
thể kiềm chế được thì cô gái ấy sẽ thuộc về anh” đó ư? Thêm nữa, thiếu niên nam
nữ trong mấy chục hôm, ngày cùng ăn, đêm cùng ngủ, mà có thể trọn chẳng có
chuyện nam nữ tình dục, chẳng xáo trộn thiên lý, chẳng phải là kẻ trọn chẳng có nhân dục mà làm được ư? Tôi đem chuyện này ghi thêm vào An Sĩ Toàn Thư và
Thọ Khang Bảo Giám. Hai cuốn sách ấy đã in hơn hai mươi vạn cuốn, nay lại ghi
kèm [câu chuyện trên đây] vào cuốn sách này, hợp thành truyện trung hiếu tiết
nghĩa để làm nhát kim đâm xuống đỉnh đầu những gã phế trừ luân lý, ngõ hầu căn
bệnh đã lậm vào tạng phủ được mau lành, khôi phục chuyện giữ vẹn luân thường,
trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, không làm các điều ác, vâng giữ
những điều lành. (Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tục Biên, Quyển hạ, Lời tựa cho bộ Dương Tiêu
Sơn Tiên Sinh Ngôn Hạnh Lục)

Mười đại lợi ích của việc niệm Phật
(Nghĩa là người niệm Phật quyết định sẽ được mười điều
lợi ích)
(1) Ngày đêm thường được hết thảy chư thiên, đại lực
thần tướng ẩn thân thủ hộ người ấy.
(2) Thường được hai mươi lăm vị đại Bồ Tát như Quán
Âm bảo vệ, gia hộ.
(3) Ngày đêm thường được chư Phật hộ niệm, A Di Ðà
Phật thường phóng quang minh nhiếp thọ người ấy.
(4) Hết thảy ác quỷ, dạ-xoa, la-sát đều chẳng hại được,
chẳng bị trúng phải rắn độc, thuốc độc.
(5) Nước, lửa, oán tặc, đao binh, súng ống, gông, cùm,
lao ngục... đều chẳng mắc phải.
(6) Những tội nghiệp đã tạo khi trước thảy đều tiêu diệt.
(7) Ðêm ngủ mộng thấy điềm lành, hoặc thấy thân sắc vàng thắng diệu của Phật A Di Ðà.
(8) Tâm thường hoan hỷ, vẻ mặt tươi tắn, khí lực sung mãn, việc làm tốt đẹp.
(9) Thường được hết thảy mọi người trong thế gian cung kính lễ bái giống hệt như kính Phật.
(10) Lúc lâm chung tâm không hãi sợ, chánh niệm hiện tiền. Tây Phương Tam Thánh
dùng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Ðộ, liên hoa hóa sanh, hưởng sự vui thắng diệu.
Xin quý vị chú ý: Trong mười điều lợi ích này, chín điều trước đều là những lợi ích
chuyển hóa nghịch cảnh, tiêu trừ tai nạn. Ðiều lợi ích cuối cùng là thân sau thoát khỏi
luân hồi.

Phương pháp niệm phật
(1) Khóa lễ sáng chiều đơn giản nhất
Nam mô đại từ đại bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm
một lần, lễ một lạy, hoặc chỉ chắp tay).
Nam mô đại từ đại bi A Di Ðà Phật (niệm lễ giống như trên).
Nam mô A Di Ðà Phật (không cần lễ bái, chỉ cung kính
niệm. Quỳ niệm, ngồi niệm, đứng niệm đều được. Tối
thiểu là trăm câu đến ngàn câu, vạn câu tùy theo công việc
rảnh hay bận của mỗi người. Chỉ nên từ ít tăng lên nhiều,
đừng từ nhiều giảm xuống ít).
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (một niệm, một lạy).
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ Tát (niệm một niệm, một lạy.
Quán Âm, Thế Chí là hai vị hiếp sĩ (Bồ Tát thị giả thân cận)
của đức A Di Ðà, thường gọi chung là Tây Phương Tam Thánh. Niệm Phật xong, lẽ đương
nhiên nên lạy hai Ngài).
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát (một niệm, một lạy. Cực Lạc thế giới có rất
nhiều vị Bồ Tát, tương lai đều là thầy bạn của mình nên cũng nên lễ bái).
Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm Phật tịnh độ
Trên đền bốn ân trọng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ai thấy nghe,
Ðều phát tâm Bồ Ðề,
Hết một báo thân này.
Cùng sanh cõi Cực Lạc.
(Ðây là bài hồi hướng, cũng nói về nguyện lực niệm Phật của mình)
Lễ bái lui ra.
Phụ chú:
Mỗi ngày sáng chiều hai lượt thực hành công khóa trên đây. Rửa tay, súc miệng, đối
trước tượng Phật thắp hương, đảnh lễ, theo đúng pháp tụng niệm. Nếu không có tượng
Phật hoặc chỗ mình ở không thuận tiện thì không đốt hương, không đảnh lễ cũng được, chỉ hướng mặt về Tây, trong lòng cung kính thì cũng có công đức tương tự. Ðừng niệm
những chữ ghi trong dấu ngoặc.
(2) Phương pháp niệm Phật mười hơi
Cho đến hết một hơi, niệm dăm ba câu hoặc sáu bảy câu “nam mô A Di Ðà Phật”. Niệm
hết mười hơi như vậy bèn niệm bài hồi hướng một lượt, lễ bái lui ra.
Phụ chú:
Cách này dành cho người cực kỳ bận rộn, chỉ tốn thời gian không quá năm phút. Ðiều
trọng yếu nhất là mỗi ngày sáng chiều phải thực hành một lần. Vạn phần chẳng được
gián đoạn. Có tượng Phật thì đối trước tượng Phật niệm tụng, không có tượng Phật thì
hướng về phía Tây mà làm.
Hai cách niệm Phật vừa đề cập trên là dành cho người quá bận rộn. Nếu có lúc rảnh rỗi
thì sau khi niệm “nam mô đại từ đại bi A Di Ðà Phật”, tụng một quyển kinh A Di Ðà, tụng
ba biến chú Vãng Sanh, tán Phật một lượt thì càng hay. Cách hành trì này tối đơn giản,
hợp thực tế, quyết định thành công.
MỤC LỤC
ĐỀ TỰA ............................................................................................................................................2
Đề tựa sách Thọ Khang Bảo Giám.................................................................................................2
Lời tựa tái bản sách Bất Khả Lục ..................................................................................................6
Lời tựa [khuyên] giữ vẹn luân lý cho sách Bất Khả Lục .............................................................8
Lời tựa phổ khuyến thọ trì lưu thông sách Dục Hải Hồi Cuồng...............................................10
* Phụ lục: Đức cao đẹp đáng ngưỡng mộ...................................................................................12
CẢNH HUẤN ..................................................................................................................................14
Huấn sức sĩ tử giới dâm văn (Bài văn khuyên bảo sĩ tử kiêng dâm).......................................14
Giới dâm thánh huấn...................................................................................................................16
Giới dâm văn ................................................................................................................................18
Giới dâm cách ngôn (Những câu cách ngôn răn dạy kiêng dâm) ............................................20
Mười hai điều tai hại của tà dâm ................................................................................................42
Tứ giác quán.................................................................................................................................45
Cửu tưởng quán...........................................................................................................................46
Mười điều khuyên răn .................................................................................................................48
Giới chi tại sắc phú (bài phú khuyên răn kiêng giữ sắc dục)....................................................50
SỰ CHỨNG ....................................................................................................................................54
Phước thiện án (những câu chuyện kể về được phước do làm lành)......................................54
Họa dâm án (Những chuyện mắc họa vì dâm) ..........................................................................70
Hối lỗi án (những câu chuyện hối lỗi) ........................................................................................85
Đồng thiện dưỡng sanh ............................................................................................................... 91
LẬP THỆ .........................................................................................................................................95
Phát thệ trì giới ............................................................................................................................95
Lời thệ nguyện ..............................................................................................................................98
GIỚI KỲ ........................................................................................................................................100
Bảo thân lập mạng giới kỳ cập thiên địa nhân kỵ....................................................................100
CẦU TỰ ........................................................................................................................................ 127
Bảo thân quảng tự yếu nghĩa .................................................................................................... 127
PHỤ LỤC ......................................................................................................................................132
Tích tự do kết hôn tà thuyết văn...............................................................................................132
Bất Khả Lục kỷ nghiệm ..............................................................................................................136
Tích tự cận chứng ......................................................................................................................138
Thọ Khang Bảo Giám
ĐỀ TỰA
Đề tựa sách Thọ Khang Bảo Giám
Chẳng có ai không muốn trường thọ, mạnh khỏe, yên ổn, con cháu đông đảo,
công nghiệp lẫy lừng, vận may đưa tới; cũng không có ai muốn bị đoản mạng, chết
yểu, bệnh tật, con cháu tuyệt diệt, gia đạo suy đồi, hung thần ngự đến. Đấy là
niềm mong ước thường tình của con người trong khắp cõi đời, dẫu là đứa trẻ mới
cao ba thước (thước Tàu), không ai là chẳng [mong muốn] như vậy. Dẫu là kẻ chí
ngu, cũng hoàn toàn chẳng vui mừng vì bị tai họa, chán phước, ghét lành; nhưng
kẻ hiếu sắc tham dâm thì những điều tâm họ mong mỏi và những chuyện thân họ
làm, đích thực là trái nghịch nhau. Rốt cuộc đến nỗi chuyện chẳng mong muốn
lại bị, chuyện mong muốn không có cách nào đạt được, chẳng đáng buồn ư?
Khoan hãy nói đến kẻ buông tuồng nơi hoa, nơi liễu, chỉ mong mỏi chuyện ấy;
ngay trong vòng vợ chồng, nếu cứ tham đắm, ắt sẽ bị táng thân, mất mạng! Cũng
có kẻ chẳng quá mức tham đắm, nhưng do không biết kiêng kỵ (những chuyện
kiêng kỵ được ghi đầy đủ ở phần sau cuốn sách, cho nên ở đây, tôi không ghi rõ)
cứ mạo muội theo đuổi, đến nỗi bị tử vong, thật quá đáng thương! Vì thế, tiền
hiền soạn sách Bất Khả Lục thuật rõ cặn kẽ mối hại sắc dục, [sưu tập] những câu
cách ngôn khuyên răn kiêng dâm, bớt dục, những câu chuyện chứng tỏ “phước
thiện, họa dâm”
, phương pháp trì giới, như ngày tháng, những lúc, những nơi
chốn, những người, những việc nên kiêng kỵ, chẳng ngại phiền phức, đều được
trình bày cặn kẽ, ngõ hầu người đọc biết phải nên kiêng dè những gì. Tâm giác
thế cứu dân ấy, có thể nói là “khẩn thiết, châu đáo, thiết tha hết mực!” Ấn Quang
lại tăng đính
2 sách ấy, đặt tên là Thọ Khang Bảo Giám và quyên mộ để in ra, hòng
lưu truyền rộng rãi, là vì có nỗi đau lòng chẳng thể chịu được!
Một đệ tử [của Quang] là La Tế Đồng, người Tứ Xuyên, bốn mươi sáu tuổi,
có thuyền buôn ở Thượng Hải, tánh tình khá trung hậu, tin sâu Phật pháp, cùng
với nhóm ông Quan Quýnh Chi v.v… đồng sáng lập Tịnh Nghiệp Xã. Trong
những năm Dân Quốc 12, 13 (1923-1924), thường muốn đến núi [Phổ Đà] quy y,
do bận việc, nên chưa được thỏa nguyện. Năm Dân Quốc 14 (1925), ông ta mắc
bệnh cổ trướng mấy tháng, tình thế cực nguy hiểm, chữa thuốc Tàu, thuốc Tây
đều vô hiệu. Đến ngày Mười Bốn tháng Tám, thanh toán tiền thuốc, vì số tiền quá
lớn, liền bực mình nói: “Từ đây dù có chết, ta cũng không uống thuốc nữa”. Bà
vợ bèn đối trước Phật cầu đảo khẩn thiết, nguyện suốt đời ăn chay, niệm Phật, cầu
1 Phước thiện, họa dâm: Người lành được phước, kẻ dâm dật mắc họa.
2 Tăng đính (增訂): Soạn thêm, sửa cho đúng những chỗ bị in sai, thiếu sót.

Thọ Khang Bảo Giám
cho chồng được lành bệnh. Ngay trưa hôm ấy, bệnh liền chuyển biến, đi tiêu xả
ào ạt nước ứ ra, không thuốc gì mà hết bệnh.
Cuối tháng Tám, Quang đến đất Thân (Thượng Hải), ngụ tại chùa Thái Bình.
Ngày mồng Hai tháng Chín, đến Tịnh Nghiệp Xã họp mặt cùng ông Quan Quýnh
Chi, ông Tế Đồng cũng có mặt. Tuy thân thể chưa hoàn toàn khỏe hẳn, nhưng khí
sắc thuần tịnh, tươi tắn không ai bằng. Gặp Quang, ông ta vui mừng thưa: “Sư
phụ đến rồi! Con xin quy y tại đất Thân, chẳng cần phải lên núi nữa!” Ông ta chọn
ngày mồng Tám, cùng vợ đến chùa Thái Bình, cùng thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Lại
thỉnh các cư sĩ Trình Tuyết Lâu, Quan Quýnh Chi, Đinh Quế Tiêu, Âu Dương
Thạch Chi, Từ Trĩ Liên, Nhậm Tâm Bạch v.v… bồi tiếp Quang dùng cơm. Ngày
mồng Mười, lại mời Quang đến nhà dùng cơm, và nói: “Sư phụ chính là cha mẹ
của bọn đệ tử, bọn đệ tử chính là con cái của sư phụ”. Quang nói: “Cha mẹ chỉ lo
khi con bệnh, nay bệnh ông tuy khá, nhưng chưa bình phục, hãy nên thận trọng”.
Tiếc là chưa nói rõ “chuyện phải thận trọng” chính là chuyện phòng sự (ân ái).
Đến hôm cuối tháng, tại Công Đức Lâm mở hội Cảm Hóa Nhà Tù, ông ta cũng
dự hội. Buổi hội giải tán xong, có mười mấy người giữ Quang lại dùng cơm. Ông
ta vừa mới đến, bèn cùng người trông coi sổ sách trao đổi mấy câu rồi đi, sắc mặt
giống hệt như người chết, Quang biết là do ông ta phạm phải phòng sự mà ra. Rất
hối tiếc lúc đó chỉ nói “cha mẹ chỉ lo khi con bệnh”, chưa từng nói rõ duyên do,
đến nỗi ông ta lại bị nguy ngập.
Muốn tu chỉnh sách này để khẩn thiết khuyên răn, nhưng do bận bịu, chưa
làm được. Ngày mồng Sáu tháng Chín, Quang về núi, bèn gởi ngay một lá thư,
trình bày hết sức tường tận lẽ lợi, hại, nhưng đã không còn thuốc gì cứu được nữa,
mấy ngày sau [ông ta] mất. Lúc mất, ông Quan Quýnh Chi mời các vị cư sĩ đều
đến niệm Phật, ông La có được vãng sanh Tây Phương hay không, chưa thể biết,
nhưng không đến nỗi đọa lạc. Ôi! Bị bệnh nặng mấy tháng, do Tam Bảo gia bị,
nên không dùng thuốc mà được lành bệnh, trong vòng mười mấy ngày, khí sắc
tươi tỉnh vượt xa người bình thường. Do không biết thận trọng, lầm lẫn phạm phải
phòng sự mà chết. Không chỉ là tự tàn hại cuộc đời, mà còn cô phụ từ ân của Tam
Bảo quá đỗi! Quang nghe tin cáo phó, tâm đau xót, nghĩ cõi đời chẳng biết kiêng
kỵ, cứ mạo muội theo đuổi chuyện đó, đến nỗi mất mạng nhiều vô số! Nếu chẳng
lập cách ngăn ngừa, gìn giữ trước, đúng là đã đánh mất đạo từ bi cứu khổ của đức
Như Lai. Tính đem Bất Khả Lục tăng đính, ấn loát lưu truyền rộng rãi, ngõ hầu
cả thế gian đều biết kiêng kỵ, chẳng đến nỗi lầm lẫn, đánh mất tánh mạng.
Một vị cư sĩ đem số tiền do mẹ để lại là một ngàn sáu trăm đồng, tính in
thiện thư để thí tặng. Quang bảo ông ta dùng hết số tiền ấy để in Thọ Khang Bảo
Giám, hòng cứu vớt thanh niên nam nữ chưa gặp cảnh nguy hiểm. Tức là do cái
chết của một mình ông La Tế Đồng, sẽ khiến cho hết thảy những người đọc sách
này trong hiện tại và vị lai, đều biết phải nên răn dè, thận trọng, cũng như do xoay
vần lưu thông, lần lượt khuyên bảo lẫn nhau, sẽ khiến cho cả thế gian đều cùng
hưởng trường thọ, mạnh khỏe, bình yên, nỗi khổ “quan, quả, cô, độc”
 ngày càng
ít thấy. Như vậy thì do cái chết của một mình ông La Tế Đồng, lại khiến cho hết
thảy mọi người đều được sống thọ, khỏe mạnh, thì cái chết của ông Tế Đồng sẽ
có công đức. Nhờ công đức ấy, hồi hướng vãng sanh, ắt sẽ từ tạ Sa Bà, cao đăng
Cực Lạc, làm đệ tử của Phật Di Đà, làm bạn lành trong hải chúng. Mạnh Tử
nói: “Dưỡng tâm giả, mạc thiện vu quả dục” (Dưỡng tâm thì không gì tốt bằng
bớt ham muốn). Tuy cũng có kẻ thiểu dục mà đoản mạng, nhưng cũng rất ít. Cũng
có người đa dục, vẫn sống lâu, nhưng [người như vậy] ít lắm! Lúc mạnh khỏe còn
nên tiết dục, huống chi lúc bệnh nặng mới lành!
Mười năm trước, con của một vị đại thương gia, học Tây Y ở Nhật Bản, đỗ
đầu, ngồi xe điện. Xe chưa ngừng, đã nhảy xuống, ngã gãy cánh tay. Do chính
anh ta là bác sĩ, nên chữa trị ngay. Phàm bị thương ở xương, ắt phải kiêng nữ sắc
trong vòng một trăm mấy mươi ngày. Cánh tay của anh ta lành chưa được bao lâu,
do mừng thọ mẹ, liền trở về nước, đêm ngủ cùng vợ, ngày hôm sau liền chết. Anh
chàng này khá thông minh, sắp thành bác sĩ, sao lại đối với chuyện kiêng kỵ này
lại ngờ nghệch chẳng biết, để đến nỗi khoảnh khắc khoái lạc cướp mất tánh mạng
rất trọng? Đáng buồn quá sức!
Năm trước, một thương nhân đang gặp vận may, hôm trước giành được mối
lợi sáu bảy trăm đồng, khá đắc ý. Ngày hôm sau, từ chỗ người thiếp đi đến chỗ
vợ cả, người vợ vui lắm. Lúc đó, nhằm tháng Năm, trời rất nóng, vợ bật quạt điện,
sắp đặt chậu tắm, lấy nước đá pha mật cho uống. Chỉ biết giải nhiệt cho mát, nào
biết: Hễ muốn ân ái, không được dùng chất lạnh. Chưa đầy ba tiếng sau, đau bụng
chết tốt! Do vậy biết: Vì thế gian chẳng biết kiêng kỵ, cứ làm bừa đi, đến nỗi tử
vong chẳng biết mấy ngàn vạn ức! Nhưng từ xưa đến nay, người có phước lớn
nhất, không ai hơn hoàng đế. Phước lớn thì thọ cũng phải dài! Thử xét kỹ xem:
Mười ông vua, có tám chín ông không thọ; chẳng phải là vì dục sự quá nhiều, lại
do chẳng biết kiêng kỵ, đến nỗi tự rút ngắn tuổi thọ đó ư? Người đại thông minh
trong thế gian, đa phần thường chẳng thọ, là vì không hiểu kỹ chuyện này mà nên
nỗi! Quang thường nói: “Người đời trong mười phần, có đến bốn phần do sắc dục
mà chết. Bốn phần tuy chẳng chết trực tiếp vì sắc dục, thì cũng vì do tham sắc
dục mà bị hao tổn, chịu đủ mọi thứ cảm xúc gián tiếp khác mà chết. Người vốn
do số mạng mà chết, bất quá chỉ là một hai phần trong mười phần mà thôi!” Thế
giới mênh mông, nhân dân đông đảo, mười phần có tới tám chín phần chết vì sắc
dục, chẳng đáng buồn ư? Đấy chính là lý do Quang lưu thông sách Thọ Khang

3 Quan (鰥): Góa vợ, Quả (寡): Góa chồng, Cô (孤): Mồ côi, Độc (獨): Không có con cái.

Bảo Giám. Mong những người yêu thương con cái trong cõi đời, cũng như những
ai vì đồng bào tạo hạnh phúc, ngăn ngừa họa hoạn, thảy đều phát tâm ấn tống,
xoay vần lưu thông, khiến cho ai nấy đều biết những điều kiêng kỵ, ngõ hầu chẳng
đến nỗi lầm lạc, đánh mất tánh mạng, cũng như chẳng bị tàn tật, đến nỗi không
thể thành tựu. Những kẻ buông tuồng tìm hoa kiếm liễu, đa số là vì không có
chánh kiến, bị lầm lạc bởi bè bạn phóng túng hoặc dâm thư, đến nỗi hãm thân
trong biển dục, không thể thoát được! Nếu chịu đọc kỹ [sách này], sẽ biết lợi hại
sâu xa, đối với những điều quan hệ đến sự vinh diệu hay nhục nhã của tổ tông,
cha mẹ, cũng như đối với sự “sống, chết, thành, bại” của bản thân lẫn gia đình,
cũng như con cháu hiền hay ngu, tuyệt diệt hay hưng vượng, sẽ đều hiểu rõ như
nhìn vào ngọn lửa. Nếu thiên lương chưa hoàn toàn mê muội, có ai hễ mắt nhìn
đến, mà tâm chẳng kinh hoàng, nỗ lực đau đáu kiêng dè ư? Sẽ thấy từ đó về sau,
ai nấy vui hưởng mối thiên luân vợ chồng, chẳng đến nỗi tham dục tổn thân, sẽ tề
mi giai lão, vừa thọ, vừa khỏe mạnh. Người ít dục thường đông con. Con của họ
chắc chắn thể chất mạnh mẽ, tâm chí trinh lương, không chỉ chẳng mắc lỗi tự tổn
hại thân thể, mà chắc chắn còn trở thành hạng lanh lợi làm rạng mày nở mặt cha
mẹ. Đấy chính là điều Quang thơm thảo mong mỏi dài lâu. Nguyện người đọc
cùng thể hiện sự đồng tình, tùy duyên lưu truyền, thì nhân dân may mắn lắm, mà
nước nhà cũng may mắn lắm thay!
Cuối Xuân năm Dân Quốc 16 (1927), tức năm Đinh Mão, Thường Tàm Quý
Tăng Thích Ấn Quang kính soạn

 Tề mi (齊眉, ngang mày): Đời Hậu Hán, vợ của Lương Hồng là nàng Mạnh Quang khi đưa
cơm cho chồng, đều nâng bát cơm cao ngang mày, ngụ ý kính trọng chồng như khách quý.
Sau này, thường dùng chữ “tề mi” để diễn tả ý vợ chồng kính trọng lẫn nhau. “Giai lão” (
偕老) là sống hạnh phúc đến răng long đầu bạc.

Lời tựa tái bản sách Bất Khả Lục
Cái họa nữ sắc cực kỳ khốc liệt. Từ xưa đến nay, do họa này mà nước mất,
nhà tan, bại thân, tuyệt tự, kể sao cho xiết! Dẫu chưa đến nỗi ấy, nhưng trong số
đó, những kẻ thân đang khỏe mạnh, trở thành suy nhược, chí đang sáng suốt trở
thành hôn ám, biến tư chất đội trời đạp đất, mong “thành thánh, thành hiền”, trở
thành hạng tầm thường, hèn tệ, không có chí lập thân, lại há có ngằn hạn? Huống
chi, những kẻ nghịch thiên lý, loạn nhân luân, sống làm loài cầm thú mặc áo, đội
mũ, chết đọa trong tam đồ ác đạo, làm sao có thể thấy hết, biết hết cho được? Ôi!
Cái họa nữ sắc sao mà khốc liệt tột bậc như vậy! Do đó, chư thánh, chư hiền, đặc
biệt rủ lòng xót thương, hoặc dùng lời lẽ cứng rắn để răn dạy, hoặc dùng lời nhẹ
nhàng để khuyên bảo, ngõ hầu khắp cả cõi đời đều biết lý “phước thiện, họa
dâm”. Lại còn nêu ra các sự thật để răn dạy, ngõ hầu những ai biết yêu thương
chính mình, hễ đọc đến, ắt sẽ sợ sệt, kinh hoảng, hiểu ra, khô cạn dòng lũ nhân
dục, khôi phục thiên lương sắp bị diệt. Từ đấy, hết thảy đồng luân đều hưởng
phước “giàu thọ, khỏe mạnh, bình yên”, vĩnh viễn lìa khỏi mối họa “nghèo, bệnh,
chết yểu”. Đây chính là lý do soạn tập bộ Bất Khả Lục. Cư sĩ Trương Thụy Tăng
muốn khắc in lại để bố thí, bảo tôi viết lời tựa nhằm phô bày ý nghĩa trọng yếu
của việc bớt dục.
Cần phải biết: Đối trước sắc đẹp, dục tâm bừng bừng, thì những lời lẽ khuyên
răn nhân quả báo ứng cứng rắn hay mềm mỏng đều khó thể đoạn tâm ái. Nếu [lúc
ấy] có thể quán bất tịnh, một bầu lửa dục sẽ băng tiêu ngay lập tức. Con em đất
Trường An ở xứ Tần (Thiểm Tây) của tôi phần nhiều thích chơi dế. Có ba anh em
tuổi đã choai choai, đêm trăng đi bắt dế nơi gò mả, chợt thấy một thiếu phụ nhan
sắc tuyệt vời, bèn cùng đuổi theo. Người thiếu phụ ấy khuôn mặt biến đổi, thất
khiếu  ứa máu, lưỡi thè ra hơn cả thước, ba đứa nó sợ chết ngất. Ngày hôm sau,
người nhà tìm được, cứu sống được một đứa, mới biết chuyện ấy. Đứa còn sống
bệnh nặng mấy tháng mới khỏi, con cháu nhà ấy chẳng dám đi bắt dế vào ban
đêm nữa! Khi thiếu phụ đó chưa biến đổi khuôn mặt, lòng yêu nhập vào xương
tủy, không thỏa lòng dục không xong! Đến khi vẻ mặt biến đổi, bèn kinh hãi đến
chết, tâm ái chẳng hề còn nữa! Nhưng trong lúc chúng cùng nhau đuổi theo cô ta
ấy, đương nhiên là chưa thấy máu và lưỡi thè ra. Sao khi máu chưa chảy, lưỡi còn
ngậm, bèn sanh tâm ái? Lúc máu chảy, lưỡi thè ra, lại sanh tâm sợ? Hiểu rõ điều
này, hễ thấy trang sắc nước hương trời, đều tưởng như con quỷ treo cổ, thất khiếu
tuôn máu, lưỡi thè ra hơn thước, sao đến nỗi bị sắc làm mê, sống chẳng hưởng hết
tuổi trời, chết đi bị đọa vĩnh viễn trong đường ác ư?
 Hai mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi và miệng gọi chung là thất khiếu (七竅).
Do vậy, đức Như Lai dạy kẻ ái dục nặng nề quán bất tịnh. Quán lâu ngày,
còn có thể đoạn Hoặc, chứng Chân, siêu phàm nhập thánh; há chỉ là không phạm
tà dâm, tiết dục, gìn giữ sanh mạng mà thôi ư? Nữ nhân nhan sắc xinh đẹp yêu
kiều, khiến người khác nẩy sanh tâm ái, hành dục sự, chẳng qua chỉ là một tấm
da mỏng bên ngoài, rực rỡ, diễm lệ gây mê hoặc đó thôi! Nếu bóc lớp da mỏng
ấy đi, không chỉ các vật được bọc trong lớp da ấy không thể yêu luyến được, mà
ngay cả lớp da mỏng ấy, cũng tuyệt đối không thể yêu luyến nổi! Nếu lại còn mổ
xẻ thân thể, chỉ thấy máu mủ dầm dề, xương thịt chằng chịt, tạng phủ, phân, tiểu
bầy hầy khắp đất, hôi dơ, tanh tưởi, chẳng nỡ thấy nghe! So với hình dáng biến
đổi của thiếu phụ trên đây, còn đáng sợ hãi, chán ghét hơn trăm lần, ngàn lần!
Dẫu cho giai nhân tuyệt thế nghiêng nước nghiêng thành, đối với những vật
được chứa trong lớp da mỏng, có ai là không như vậy? Sao con người chỉ nhìn cái
vẻ bên ngoài, chẳng xét kỹ nội dung? Yêu chút phần sắc đẹp, chẳng màng đến
nhiều phần xấu ác? Tôi mong sao người đời bỏ vẻ bên ngoài, hãy xem xét nội
dung, chán cái “nhiều xấu ác”, gạt bỏ đôi chút vẻ đẹp [bên ngoài], hòng cùng
thoát biển dục, cùng lên bờ giác. Lại trong lúc dâm dục hừng hực, không thể chế
ngự, chỉ nên nghĩ nữ âm như miệng rắn độc, như đem nam căn của chính mình
bỏ vào miệng rắn, tâm thần kinh hoảng, xương lông run rẩy. Vô biên nhiệt não sẽ
nguội lạnh ngay lập tức! Đấy chính là phương pháp diệt dục giản dị nhất vậy!
Thích Ấn Quang soạn.
 Nữ âm (女陰): Bộ phận sinh dục của người nữ.
Lời tựa [khuyên] giữ vẹn luân lý cho sách Bất Khả Lục
Trời là đại phụ, đất là đại mẫu. Hết thảy nam nữ đều là con cái của trời đất,
đều là kẻ ruột thịt của ta. Đã là ruột thịt, phải trọn hết lòng hòa thuận, yêu thương,
che chở, nâng đỡ, mong cho ai nấy đều được yên ổn. Như thế, sẽ chính là đứa con
xứng đáng của trời đất, chẳng khiến đấng sanh ra ta hổ thẹn! Đã có thể che chở,
nâng đỡ con cái của trời đất, ắt trời đất sẽ thường che chở, nâng đỡ kẻ đó, khiến
cho phước sâu, thọ dài, mọi chuyện như ý. Nếu như mặc tình hoành hành, khinh
hiếp con cái của trời đất, sẽ tổn phước, giảm thọ, diệt môn, tuyệt tự. Khi một hơi
thở ra không hít vào được nữa, sẽ vĩnh viễn đọa trong ác đạo trải trăm ngàn kiếp,
không được làm thân người lần nữa! Ấy chính là tự mình chuốc họa, há có phải
là trời đất không nhân từ ư?
Khoan nói đến những chuyện khác, kìa như vợ con, chị, em, ai nấy đều có.
Nếu kẻ nào dòm ngó vợ con, chị em của chính mình, ta liền nổi nóng, bực tức,
muốn đánh nhau, sao lại thấy vợ con, chị em của người ta có chút nhan sắc, tâm
bèn khởi xằng dâm niệm, lăm le toan ô nhục họ? Cùng là con cái của trời đất, là
ruột thịt của ta. Nếu đối với người ruột thịt mà khởi ý niệm bất chánh, sẽ là ô nhục
con cái của trời đất, khinh khi người ruột thịt, kẻ ấy còn có thể đứng trong trời
đất, còn đáng gọi là người nữa ư? Huống chi, đạo vợ chồng thuộc về Tam Cương,
Ngũ Thường, nam nữ lập gia đình là giềng mối lớn lao của con người. Con người
sở dĩ khác với cầm thú, là do có nhân luân. Nếu làm chuyện khinh miệt lý, loạn
luân, chính là dùng thân người để làm chuyện cầm thú; thân tuy là người, nhưng
thật ra, chẳng bằng cầm thú. Vì sao vậy? Vì cầm thú không biết luân lý, con người
biết luân lý! Biết luân lý mà vẫn khinh miệt luân lý, phải ở dưới loài cầm thú!
Nhưng hết thảy chúng sanh do dâm dục mà sanh, cho nên tập khí ấy đặc biệt
nặng nề, phải ngăn ngừa sâu xa. Tưởng như người thân, tưởng như kẻ oán, tưởng
bất tịnh, ngõ hầu dứt bặt tà niệm, thuần túy toàn là chánh niệm. Oán và bất tịnh
thì trong lời tựa trước đã nói, ở đây, chỉ riêng phát huy về ý “tưởng như người
thân”, ngõ hầu người đọc cùng giữ trọn vẹn thiên luân, chẳng ôm giữ ác niệm.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương dạy con người nên xem nữ nhân như sau: “Tưởng
người già như mẹ, người lớn hơn như chị, người nhỏ hơn như em, coi đứa bé bỏng
như con gái, sanh tâm độ thoát, dứt bặt ác niệm”. Kinh Phạm Võng dạy: “Hết
thảy người nam đều là cha ta, hết thảy người nữ đều là mẹ ta. Đời đời không khi
nào ta chẳng từ họ sanh ra, phải sanh tâm hiếu thuận, tâm từ bi”. Như vậy, che
chở, nâng đỡ họ còn chưa xuể, lẽ đâu khởi tâm xấu hèn, toan ô nhục họ?
Đời Minh, có một người học trò mắc thói dâm, chẳng thể tự kiềm chế, bèn
hỏi Vương Long Khê
. Long Khê nói: “Ví như có người bảo ông: ‘Ở đây có cô
gái làng chơi nổi tiếng, ông có thể đến chơi bời’. Theo lời đó, ông đến gặp, hóa
ra là mẹ, hoặc chị em của ông. Ngay khi ấy, lòng dâm của ông có nguội lạnh hay
chăng?” Đáp: “Nguội chứ!” Long Khê nói: “Thế nhưng dâm vốn là không, ông
hãy hiểu cho đúng”. Nếu con người chịu coi hết thảy nữ nhân là mẹ, là con gái, là
chị, là em, không chỉ là những ác niệm dâm dục chẳng thể do đâu mà sanh khởi,
mà nhờ đó còn mau chóng thoát khỏi sanh tử luân hồi! Trong bộ sách Bất Khả
Lục, những lời khuyên răn cứng rắn hay nhẹ nhàng, những câu chuyện được phước
do thiện, mắc họa do dâm, và những ngày tháng nơi chốn nên kiêng ngừa [ăn
nằm], đều nhất nhất nêu rõ. Có thể nói cái tâm “giác ngộ cõi đời tỉnh mê” ấy đã
vừa chân thành, lại vừa tha thiết.
Cư sĩ Trương Thụy Tăng ở Duy Dương, tâm lợi người tha thiết, liền cho khắc
in lưu hành, sai Quang phơi bày rõ ràng những điều trọng yếu, hòng trấn áp lòng
dục. Do đấy, tôi tường thuật ý chỉ đại khái về “tưởng như kẻ oán, tưởng là bất
tịnh”. Tiếp đó, vì anh họ ông ta là Chánh Huân đã qua đời, muốn dùng công đức
này để truy tiến linh thức, ngõ hầu tội chướng tiêu diệt, phước trí cao rạng, thoát
khỏi Dục Giới ngũ trược, sanh vào chín phẩm liên bang. Do tình hiếu hữu của cư
sĩ, nên tôi lại soạn lời tựa bàn định chuyện giữ vẹn luân thường, mong sao những
ai thấy nghe đều suy xét tường tận thì may mắn lắm thay!
Thích Ấn Quang kính soạn

 Long Khê là hiệu của Vương Kỳ (1498-1583), tự là Nhữ Trung, là một nhà tư tưởng đề
cao thuyết Tam Giáo Đồng Quy vào thời Minh. Ông Vương cực lực cổ vũ học thuyết “tri
hành hợp nhất” của Vương Dương Minh. Những trước tác của ông được biên tập thành bộ
Long Khê Tiên Sinh Toàn Tập.
Lời tựa phổ khuyến thọ trì lưu thông sách Dục Hải Hồi Cuồng
Mối họa cực thảm khốc, cực lớn, cực sâu trong thiên hạ, hễ bộp chộp động
đến, ắt phải táng thân, mất mạng, nhưng nhiều người vẫn ưa thích theo đuổi, lăn
xả vào, dẫu chết chẳng hối, có lẽ chỉ có mình nữ sắc mà thôi! Những gã cuồng đồ
buông lung nơi dục sự, mò hoa, bẻ liễu, trộm ngọc, cắp hương, diệt lý, loạn luân,
bại gia, nhục tổ, tiếng ác đồn khắp làng nước, để tiếng nhơ cho con cháu, sống
chẳng được hưởng hết tuổi thọ, chết sẽ đọa vĩnh viễn trong đường ác. Hãy khoan
nói đến những gã ấy! Ngay như trong tình vợ chồng, những kẻ đắm đuối trong ấy
đến nỗi mất mạng, kể sao cho xiết? Vốn mong cầu khoái lạc, bất ngờ chết mất!
Cảnh khổ góa bụa, quả thật phần nhiều do chính mình tự chuốc! Há có phải hoàn
toàn là do số mạng xui khiến như thế ư? Những kẻ tham luyến chuyện chiếu chăn,
đều là tự mình chuốc lấy tai ương. Cũng có kẻ hoàn toàn chẳng luông tuồng, mê
đắm, nhưng do không biết kiêng ngừa, cứ mạo muội làm bừa, đến nỗi tử vong
cũng rất nhiều! Vì thế, thiên Nguyệt Lệnh trong sách Lễ Ký có đoạn văn nói về
chánh lệnh: “Chấn đạc bố cáo, linh giới dung chỉ” (Gõ mõ truyền lệnh kiêng kỵ
chuyện ăn nằm) (“Dung chỉ” (容止) có nghĩa là động tĩnh, tức là chuyện ân ái).
Lòng thương dân của bậc thánh vương thời cổ, có thể nói là “chẳng bỏ sót điều
nhỏ nhặt nào” (những nơi chỗ kiêng kỵ sách Thọ Khang Bảo Giám có chép rõ,
hãy nên đọc kỹ).
Tôi thường nói: Trong mười phần nhân dân của thế gian, những kẻ chết trực
tiếp vì sắc dục chừng bốn phần, kẻ gián tiếp bị chết, cũng đến bốn phần, tức là do
bị sắc dục gây hao tổn, chịu những cảm xúc khác mà chết. Những kẻ bị chết ấy,
không ai chẳng đổ thừa cho số mạng, nào có biết vì tham sắc mà chết, đều chẳng
phải là do số mạng. Nếu là [chết vì số] mạng, phải là người giữ lòng thanh tịnh,
trinh lương, không tham dục sự! Những kẻ tham sắc kia đều là tự tàn hại đời mình,
há có thể nói là vì số mạng ư? Còn những người do mạng mà sống, mạng hết bèn
chết, chẳng qua chỉ được một hai phần đó thôi! Do vậy biết: Quá nửa thiên hạ đều
là kẻ chết oan uổng. Mối họa này khốc liệt có một không hai trong cõi đời, chẳng
đáng buồn ư? Chẳng đáng sợ ư? Cũng có cách chẳng phí một đồng, chẳng tốn
chút sức, mà trở thành bậc đức hạnh cao tột, hưởng yên vui cực lớn, để lại phước
ấm vô cùng cho con cháu, khiến đời sau đạt được quyến thuộc trinh lương, có
phải chỉ là kiêng dè dâm đó ư?
Trước kia, tôi đã trình bày đại lược sự lợi, hại trong chuyện dâm tình chánh
đáng giữa vợ chồng, nay không bàn đến nữa. Còn chuyện tà dâm vô liêm, vô sỉ,
cực uế, cực ác, chính là dùng thân con người để làm chuyện thú vật. Do vậy, gái
đẹp đến tằng tịu, nữ nhân yêu mị đến quyến rũ, quân tử xem như mối họa ương
không gì lớn bằng, cho nên cự tuyệt, ắt được phước diệu chiếu soi, hoàng thiên
che chở. Tiểu nhân xem điều đó như hạnh phúc không gì lớn lao bằng, bèn nhận
lãnh, ắt đến nỗi tai tinh giáng xuống, quỷ thần tru lục. Quân tử do họa được phước,
tiểu nhân do họa mà càng thêm họa! Vì thế nói: “Họa phước không có cửa, do
con người tự chuốc lấy”. Nếu đối với cái ải nữ sắc, người đời chẳng thể thấy thấu
suốt triệt để, sẽ khiến cho “đức hạnh cao tột, an lạc cực lớn, phước ấm vô cùng để
lại cho con cháu, quyến thuộc trinh lương trong đời sau” đều bị khoảnh khắc hoan
lạc đoạt hết! Buồn thay!
Cuốn sách Dục Hải Hồi Cuồng của An Sĩ tiên sinh đã chia môn, phân loại,
trình bày rành mạch. Tài văn bút khiến cho kẻ tục người nhã đều cùng thích xem,
trần thuật, khuyên lơn, răn dạy, thảy đều tha thiết. Cội nguồn, ngành ngọn của
những chuyện xưa nay “người không dâm được phước, kẻ phạm dâm mắc họa”
đều ghi chép tỉ mỉ, lớn tiếng gào to, chẳng tiếc sức thừa. Trống khuya, chuông
sớm, lay tỉnh con người sâu xa, muốn khiến cho người khắp cõi đời đều hưởng
phước lạc, ai nấy hưởng hết tuổi trời mới thôi! Cần biết: Sách này tuy vì răn dạy
kiêng dâm mà soạn ra, nhưng về nghĩa và đạo thì phàm là những pháp cai trị đất
nước, bình trị cõi đời, tu thân, tề gia, cùng lý tận tánh, liễu sanh thoát tử, thảy đều
trọn đủ! Nếu khéo lãnh hội, thần trí sẽ sáng suốt, đâu đâu cũng thấy được nguồn,
những gì chạm vào mắt sẽ đều là đạo. Có thể nói: Tâm thương đời cứu dân tột bậc
sâu đậm, thiết tha!
Do vậy, vào năm Dân Quốc thứ bảy (1918), Ấn Quang đặc biệt đưa bộ An
Sĩ Toàn Thư sang khắc ván tại Tàng Kinh Viện ở Dương Châu. Năm Dân Quốc
thứ tám (1919), lại cho khắc riêng lẻ hai bộ Dục Hải Hồi Cuồng và Vạn Thiện
Tiên Tư. Năm Dân Quốc thứ mười (1921), lại quyên mộ in bộ An Sĩ Toàn Thư
theo dạng rút nhỏ. Tính in mấy mươi vạn bộ để truyền bá khắp toàn quốc, nhưng
do người hèn, đức mỏng, không có cách nào cảm thông, chỉ in được bốn vạn
quyển mà thôi. Trung Hoa Thư Cục in riêng để bán, cũng gần đến hai vạn bản.
Hàng Châu, Hán Khẩu đều bắt chước in theo, số sách được in đương nhiên cũng
không ít. Nhờ có cư sĩ Ngô Tử Tường người đất Thái Thương, tỉnh Giang Tô, nghĩ
họa hại thế gian ngày càng nặng nề, những tân học phái đề xướng phế bỏ luân
thường, tiết hạnh, chuyên chủ trương tự do luyến ái như đê bị vỡ, nước mặc sức
chảy ào ạt, khiến cho mọi thanh niên nam nữ cùng bị hãm trong vùng nước xoáy
của biển dục không đáy. Ông bèn phát tâm in rộng rãi bộ Dục Hải Hồi Cuồng, thí
tặng khắp mọi người trong xã hội để mong đẩy lùi cơn sóng cuồng loạn. Chí của
mọi người tạo thành bức thành, nhiều người nâng, dễ giở lên, khẩn thiết xin những
 Diệu (曜) và tinh (星) đều có nghĩa là những ngôi sao, phước diệu (福曜) là ngôi sao tốt
lành, tai tinh (災星) là ngôi sao rủi ro. Phước diệu và tai tinh có nghĩa là vận tốt và vận
rủi.
bậc quân tử nhân từ trong nước, hãy phát tâm cứu thế lớn lao, tùy sức ấn tống và
khuyên bảo kẻ hữu duyên phổ biến lưu thông. Lại mong cha dạy con, anh khuyên
em, thầy răn trò, bạn bè bảo ban nhau, khiến cho người người đều biết họa hại,
lập chí như núi, giữ thân như ngọc. Không chỉ là chẳng phạm tà dâm, mà ngay cả
dâm sự chánh đáng giữa vợ chồng cũng biết chừng mực. Sẽ thấy quan, quả, cô,
độc từ đây ngày càng ít, giàu, thọ, mạnh, khỏe, yên ổn, ai nấy đều đạt được. Thân
thể, nhà cửa do đấy mà được yên ổn, tốt lành, cõi nước vì thế mà an ninh, uế đức
chuyển thành ý đức (懿德: đức tốt đẹp), tai ương biến thành may mắn, tốt lành,
rốt ráo, chẳng phí một đồng, chẳng nhọc chút sức, lại đạt được hiệu quả mỹ mãn
như thế đó! Mong sao người nhân từ, bậc quân tử, đều thấy chuyện nhân chẳng
nhường, vui vẻ mà làm. Do vậy, trần thuật những ý chánh để cống hiến những
người cùng hàng.
Năm Dân Quốc 16 (1927), Thích Ấn Quang soạn
* Phụ lục: Đức cao đẹp đáng ngưỡng mộ
(theo Dương Châu Cam Tuyền Huyện Chí)
Đời Nguyên, Tần Chiêu là người Dương Châu, đến tuổi nhược quan, lên
kinh đô chơi. Đã lên thuyền, có một người bạn họ Đặng đem rượu tới tiễn chân.
Đang trong lúc uống rượu, chợt có một nữ nhân tuyệt sắc ngồi kiệu tới. Ông Đặng
bảo cô ta chào Tần Chiêu rồi bảo: “Cô này chính là người thiếp do tôi mua giùm
cho vị đại nhân X… ở bộ Y… Tiện dịp, nhờ ông mang cô ta theo”. Tần Chiêu đôi
ba lượt từ chối. Ông Đặng lộ vẻ giận, nói: “Sao ông cố chấp như thế! Nếu chẳng
thể kiềm chế, cô này sẽ thuộc về ông; bất quá là hai ngàn năm trăm đồng mà
thôi!” Tần Chiêu bất đắc dĩ phải nhận lời. Khi ấy, tiết trời đã nóng, muỗi rất nhiều.
Cô gái khổ sở vì không có mùng. Tần Chiêu bảo cô ta ngủ chung mùng với mình.
Theo đường sông, qua mười mấy ngày đến kinh thành. Tần Chiêu gởi cô ấy
cho bà chủ quán trọ, tự cầm thư đến xin gặp người ấy. Nhân đó, người ấy hỏi:
“Ông đến đây có mang theo gia quyến hay không?” Tần Chiêu thưa: “Chỉ có mình
tôi”. Mặt người ấy bỗng lộ vẻ giận, nhận thư của ông Đặng, miễn cưỡng sai đón
cô gái ấy về nhà. Đến đêm, mới biết cô ấy vẫn còn trong trắng. Người ấy cảm
thấy hổ thẹn khôn cùng! Hôm sau, liền gởi thư cho ông Đặng, hết mực ca tụng
đức hạnh của Tần Chiêu; đến gặp ông Chiêu, thưa: “Các hạ đúng là bậc quân tử
 Nhược quan (弱冠): Thời cổ, khi nam giới đủ hai mươi tuổi, sẽ cử hành lễ đội mũ, gọi là
lễ Gia Quan, búi tóc lên, đội mũ, hòng nhắc nhở người thanh niên đã đến tuổi trưởng
thành, phải biết gánh vác trách nhiệm. Tên tự cũng được đặt vào lúc này. Về sau, từ ngữ
“nhược quan” dùng để chỉ tuổi hai mươi.
đức dầy, ngàn đời ít có! Ngày hôm qua, tôi rất sức ngờ vực, đã dùng bụng dạ tiểu
nhân suy lường tấm lòng quân tử, thẹn thùng khôn xiết!”
Nhận định: Nếu tâm Tần Chiêu chẳng phải là không có ham muốn, chánh
niệm thiên lý, ngày cùng ăn, đêm cùng ngủ với cô gái tuyệt sắc ấy, lâu tới mười
mấy ngày, há có thể chẳng có ham muốn tình dục ư? Cố nhiên, Tần Chiêu là bậc
quân tử đức dầy, cô ấy cũng thuộc hạng thục nữ trinh khiết. Đức đẹp và tấm lòng
trung trinh, khiến cho kẻ khác kính ngưỡng. Do vậy, ghép vào đây hòng lưu thông
rộng rãi!
Năm Dân Quốc 16 (1927), tức năm Đinh Mão, Thích Ấn Quang ghi

CẢNH HUẤN
Huấn sức sĩ tử giới dâm văn (Bài văn khuyên bảo sĩ tử kiêng dâm)
Văn Xương Đế Quân nói:
- Trời thường giáng họa cho kẻ dâm dật, sự báo ứng ấy rất nhanh chóng. Con
người chẳng sợ, vô tri say mộng. Nếu chẳng biết kiểm điểm hành vi, tai ương sẽ
lập tức ùa tới. Này mọi người ơi! Hãy nghe lời ta răn: Chỉ có tích đức, hành thiện,
mới được tốt lành, từ xưa đã nói như vậy! Làm chuyện bất thiện, tai ương giáng
xuống! Người xưa đã răn dạy rõ: Thời Xuân Thu, do dâm loạn [mà các vua chư
hầu] đều bị nước mất, nhà tan! Các bài Phong, Nhã [trong kinh Thi]
10 đã từng chê
trách nhằm dứt sạch chuyện cặp kè, đàn đúm. Vì thế, trái nghịch lý, chính là tự
giết chết tánh mạng; tham dâm sẽ tự hủy thanh danh. Người làm chuyện trái lẽ,
lòng trời hết sức giận dữ. Thượng Uyển thơm ngát mùi quế, chẳng phải là kẻ giữ
mình trong sạch, ắt khó bước vào. Yến tiệc chiêu đãi tân khoa do vua ban, há kẻ
ô danh được hưởng? Ta cai quản công danh, thường ban lời dạy bảo. Hiềm rằng
sĩ tử chỉ tham hoan lạc phút chốc, chẳng tiếc tương lai cả đời. Hễ dâm loạn [vợ
con của] người ta, sẽ bị người ta dâm loạn [vợ con của chính mình], giống như
trao đổi buôn bán ngoài chợ vậy! Nghiệp báo thảm khốc, ai là kẻ rửa sạch lòng?
 Kinh Thi được chia thành ba phần là Phong, Nhã, và Tụng. Phong (風) là ca dao của mười
lăm nước chư hầu. Nhã (雅) có nghĩa là đứng đắn, tức là âm nhạc trong triều đình và
những nhạc khúc thời cổ. “Nhã” trong kinh Thi chính là những lời ca của những khúc nhạc
trong triều đình nhà Châu. Tụng (頌) là lời ca được sử dụng trong tế lễ tại tông miếu.
 Đây là nói đến một bài thơ trong kinh Thi, thuộc phần Quốc Phong, tiểu loại Dung Phong
(tức là dân ca ở đất Dung), ngụ ý chê bai nàng Tuyên Khương nước Vệ dâm loàn, có thuyết
nói đây là bài thơ than thân trách phận của Vệ Tuyên Khương. Bài thơ như sau: “Thuần
chi bôn bôn, thước chi cương cương, nhân dĩ vô lương, ngã di vi huynh. Thước chi cương
cương, thuần chi bôn bôn, nhân dĩ vô lương, ngã dĩ vi quân” (Chim cút cặp kè từng đôi,
chim khách cũng sống theo nhau từng đôi, kẻ ấy vô lương, ta phải nhận là anh. Chim khách
sống theo nhau từng đôi, chim cút cũng sống theo nhau từng đôi, kẻ ấy vô lương, ta phải
nhận là vua). Nàng Tuyên Khương chính là con gái đầu của Tề Hy Công (Khương Lộc Phủ),
vốn đã được hứa gả cho thế tử Cấp nước Vệ. Nhưng vua cha là Vệ Tuyên Công do mê say
sắc đẹp của Tuyên Khương, đã cố ý sai thế tử Cấp đi sứ nước Tống trước ngày hôn lễ, thừa
cơ chiếm con dâu làm vợ. Một người con khác của Vệ Tuyên Công là công tử Sóc đã lập
mưu hãm hại thế tử Cấp. Sau khi Tuyên Công chết, công tử Sóc lên làm vua, tức là Vệ Huệ
Công. Khi Vệ Huệ Công đi họp chư hầu, các quần thần cũ đã lập công tử Kiềm Mâu lên làm
vua chống lại Huệ Công. Vua nước Tề khi ấy là Tề Tương Công (anh trai của Tuyên
Khương), sợ dân Vệ sẽ giết chết Tuyên Khương, bèn bày kế gả Tuyên Khương cho công tử
Thạc vốn là con trai thứ của Vệ Tuyên Công, nghĩa là từ địa vị mẹ kế, Tuyên Khương lại
lấy con chồng! Tuyên Khương hết sức vui thích, nhưng công tử Thạc cự tuyệt. Đại phu
nước Vệ là công tử Chức sợ nước Tề kiếm cớ xâm lăng, bèn mời công tử Thạc ăn tiệc,
chuốc rượu say, rồi đưa công tử Thạc vào phòng Tuyên Khương. Tỉnh rượu, trước chuyện
đã rồi, Thạc phải lấy Tuyên Khương làm vợ. Bài thơ ngụ ý chê trách những người như Vệ
Tuyên Công, Vệ Tuyên Khương vì tham dục mà còn thua kém cả loài chim luôn giữ trọn
tình chung thủy.
Ta vào mỗi dịp thi cử trong tháng Hai, tháng Tám, thường vào dịp đó, chọn lựa,
loại bỏ [những kẻ trúng tuyển]. Một nét bút xóa tên, chỉ vì gã đó ngấm nghé vợ
người hàng xóm. Đề thêm tên kẻ khác [sẽ thi đỗ], vì người ấy cự tuyệt gái chưa
chồng [lả lơi]! Muốn nghe sấm dậy đất bằng, tấc lòng đừng nổi lửa! Kẻ suốt đời
thi cử lận đận, há có phải là kẻ chẳng siêng khổ học hành, văn tài cao ngất? Suốt
đời truân chiên, đều là do chẳng tuân quy củ, hủy hoại danh tiết. Kẻ sĩ chẳng suy
xét nguyên do, ngược ngạo oán trời, hận đất! Thi đỗ tiến sĩ, chỉ do nội tâm. Khoác
áo bào tía, toàn là do âm chất. Trong khuôn viên trường thi, chỗ nào cũng đều
có thần [giám sát]. Trong phạm vi của tam trường khảo thí, đều có quỷ [báo
oán]. Tiếc thay! Từng chữ đều như châu, như ngọc, chợt muội đèn rơi bẩn quyển
văn. Hận sao! Từng đoạn văn như dệt gấm, thêu hoa, bỗng vết mực khiến bài văn
lem luốc! Lúc ấy, thật sự do ta chủ trì, ai bảo “trời xanh không có mắt”? Kẻ đỗ
tam nguyên, ắt có đức kinh động thần minh. Sen nở liền cuống, bỗng chốc nghe
chuyện xấu nhụy rụng tan tác. Nếu có thể giữ cho thân tâm chánh trực chẳng tà,
tự nhiên sẽ danh thành, lộc đạt. Đặc biệt ban lời huấn dụ mới mẻ, ngõ hầu ai nấy
đều hay biết.
(Hiện thời, tuy không còn khoa bảng, nhưng [nguyên nhân gây nên] tổn
phước, giảm thọ, cố nhiên là chẳng khác! Đừng suy nghĩ bộp chộp, bảo “hiện
thời chẳng giống như xưa. Dẫu có trót phạm, chẳng đến nỗi trở ngại công danh”,
mặc tình làm bừa, mong lắm thay!)
 Câu này là viết theo ý thành ngữ: “Bình địa nhất thanh lôi” (Sấm dậy nơi đất bằng), ngụ
ý: Biến động to lớn đột nhiên phát sanh, ở đây là nói tới chuyện sĩ tử thi cử đỗ đạt. Bào tía (tử bào, 紫袍): Áo bào màu tía (Bào là một loại lễ phục rộng tay) là triều phục
(áo mặc đi chầu vua) của các vị đại thần. Tam trường (三場) là ba giai đoạn thi cử ngày xưa: Hương Thí, Hội Thí và Điện Thí (Đình
Thí). Tam nguyên (三元), gọi đủ là “tam nguyên cập đệ” hoặc “liên trúng tam nguyên” là đỗ
đầu trong cả ba kỳ thi Hương, Hội và Đình. Người đỗ đầu thi Hương gọi là Giải Nguyên,
đỗ đầu kỳ thi Hội là Hội Nguyên, đỗ đầu kỳ thi Đình là Trạng Nguyên. Tam Nguyên rất khó
đạt, trong lịch sử Trung Hoa, mỗi triều đại chỉ có một hai vị được như vậy, riêng đời Tống
là có sáu trường hợp. Chẳng hạn nhà Đường tồn tại khá lâu, thế mà chỉ có hai người đỗ
Tam Nguyên là Thôi Nguyên Hàn và Trương Hựu Tân. Không biết Việt Nam có bao nhiêu
trường hợp như vậy, chỉ thấy sách vở thường nói đến cụ Tam Nguyên Yên Đổ (Nguyễn
Khuyến). Hai hoa sen nở chung một cuống (liên khai tịnh đế, 蓮開並蒂) được coi là điềm tốt lành.
Cả câu này hàm ý: Người đáng đỗ cao, do chẳng kiêng tà dâm, trót làm chuyện xằng bậy,
nên phút chốc công danh bỗng trở thành hư huyễn. Xin xem chuyện tường sanh họ Uông
ở Phượng Dương trong phần Họa Dâm Án.
Giới dâm thánh huấn
Văn Xương Đế Quân ban lời huấn dụ:
- Ta phụng mạng của đấng Kim Khuyết Chí Tôn, mỗi tháng vào ngày Dần,
Mão, đi tuần tra Phong Đô địa ngục, xem xét những chuyện phạm tội của nhân
dân trong thiên hạ. Thấy sổ đen (sổ ghi tội ác) như núi, đều là [sổ sách ghi chép]
những bản án về tạo tội oan nghiệt trong một đời của người đời. Trong ấy, có lắm
nỗi làm ác; chỉ có điều, đối với sự báo ứng của tội dâm ác, luật trời nghiêm khắc
nhất. Kẻ gian dâm vợ con, điếm nhục khuê môn của kẻ khác, sẽ chịu khổ trong
địa ngục năm trăm kiếp, mới được thoát ra, lại sanh làm lừa, làm ngựa năm trăm
kiếp nữa, rồi mới lại được làm người. [Đã làm người, lại thành] ả đào, con hát! Kẻ
bày mưu tính kế, gian dâm gái góa, ni, tăng, làm chuyện bại hoại tiết tháo của
người khác, sẽ chịu khổ tám trăm kiếp trong địa ngục, rồi mới được thoát ra, sanh
làm dê, làm lợn, dâng thân cho kẻ khác giết mổ tám trăm kiếp nữa, sau đấy mới
được làm người, mù lòa, câm ngọng! Kẻ rối loạn tôn ty, hoặc kẻ trưởng thành dâm
loạn trẻ nhỏ, tổn hại cương thường, sẽ chịu khổ một ngàn năm trăm kiếp trong địa
ngục mới được thoát ra, sanh làm rắn, làm chuột một ngàn năm trăm kiếp nữa, rồi
mới được làm người. [Thế nhưng], hoặc là còn trong ở trong bụng mẹ đã chết,
hoặc đang độ tuổi ẵm ngửa đã mất mạng, rốt cuộc chẳng hưởng trọn tuổi trời!
Lại có kẻ sáng tác dâm thư, mang tâm thuật hại người, chết rồi sẽ đọa vào
Vô Gián địa ngục, mãi cho đến khi sách ấy diệt mất, tội báo của những kẻ do sách
ấy mà trót làm ác thảy đều rỗng không, [gã tác giả] mới được thoát sanh. Dâm thư
gây hại chẳng thể kể xiết! Thường có những khuê nữ danh giá, nữ nhân hiền thục,
do biết chữ, hiểu văn chương, hoặc vào lúc ban ngày thanh tĩnh, bên song rợp
bóng cây xanh, hoặc khi đêm vắng, dưới ngọn đèn xanh, mở sách ra xem, hồn
phách điên đảo, khôn ngăn lửa dục hừng hực, bèn làm những chuyện dâm bôn,
vụng trộm, đến nỗi tiết phụ thất tiết, trinh nữ mất trinh! Lại có những đứa con em
thông minh, vừa tuấn tú, vừa có văn tài, hễ xem sách ấy, bèn dấy lên dục tưởng,
hoặc thủ dâm chẳng thể khống chế, hoặc mắt đi mày lại, chung chạ bừa bãi! Nhẹ
thì tổn hại nguyên dương, tuổi trẻ đã chết non, lớn thì vấy bẩn, rối loạn luân
thường, kỷ cương, chẳng xứng làm Nho sĩ! Lại còn có kẻ khéo soạn truyện ký để
diễn xuất tại chỗ, dạy dỗ tập luyện bọn trai bao phô bày đủ vẻ dâm đãng, rối
loạn tiết tháo thanh sạch của kẻ khác, chẳng thể kể xiết!
Nguyên văn “bế đồng” (嬖童), còn gọi là “luyến đồng”, từ ngữ dùng để chỉ những kẻ mãi
dâm nam, thường là chưa đến tuổi thành niên. Thuở trước, còn có những kẻ khá giả, nuôi
những bé trai xinh đẹp trong nhà dưới danh nghĩa là người hầu sai vặt, thường gọi là “thị
đồng” (thằng hầu) hoặc “thư đồng” (người hầu trong việc đọc sách, lo dọn dẹp thư phòng,
mài mực, xén giấy, thắp nến, châm đèn, sắp xếp sách vở), nhưng trên thực tế là bạn
giường. Những kẻ như vậy thường được gọi châm biếm là “luyến đồng”.
Xét đến căn do, đều do dâm thư tạo thành. Cớ sao sĩ tử nắm chiếc bút bảy
tấc, dùng huệ căn đời trước [để sáng tác dâm thư], chẳng nghĩ đến chuyện ích lợi
cho cõi đời, tích phước cho bản thân, cứ mong tạo oan nghiệt vô cùng, khiến
Thượng Đế nổi giận. Tự nhảy vào vực băng, hầm lửa, chẳng biết tự thương xót
chính mình. Đáng buồn quá đỗi!
Giới dâm văn
Từng nghe: Biển nghiệp mịt mù, không có gì khó đoạn bằng sắc dục! Hồng
trần rối ren, dễ phạm chỉ có tà dâm. Bậc anh hùng cái thế [có chí] dời non dẹp
núi, do lỗi này, vong thân, diệt quốc! Bậc tài hoa “tâm gấm, miệng thêu”, vì lẽ
này, danh tiết bại hoại! Xưa nay đều cùng một lẽ; kẻ hiền, người ngu, đều theo
một lối. Huống hồ, thói vứt bỏ thuần phong mỹ tục ngày càng lẫy lừng, đạo đức
từ cổ đã bị chìm đắm. Lũ trẻ tuổi khinh cuồng, tất nhiên đắm đuối trong chốn
phấn son! Bậc văn nhân thông huệ, cũng bắt chước thói “áo xanh ướt đẫm”!
Nói “diệt dục”, mà dục niệm càng thịnh, gấp bội; nghe răn dâm, mà ý dâm càng
lừng! Trên đường sá, gặp hình dáng yêu kiều, mắt nhìn chăm chú ngàn phen. Thấy
bóng sắc lộng lẫy sau rèm khuê các, tâm rạo rực trăm bề. Thân luôn bị sai khiến
bởi tâm, thức luôn bị tình lôi dắt. Gặp bà lão tầm thường, nhan sắc héo tàn, nếu
ngẫu nhiên cài cỏ, giắt hoa, cứ tưởng Tây Thi. Ả nông dân vóc dáng thô kệch, nếu
thoa hương, bôi xạ, chợt quên hình dáng Đông Thi.
Nào biết trời đất khó dung, thần, người căm giận! Nếu hủy hoại tiết hạnh
người khác, vợ con ta sẽ phải đền bồi. Ô nhục thanh danh kẻ khác, cháu con mình
mai sau chịu báo. Phần mộ không người cúng bái, không gì chẳng phải [là chốn
vùi thân] của gã cuồng sinh khinh bạc. Tổ tông của gái làng chơi, toàn là bọn lãng
tử tham hoa đắm liễu! Số vốn giàu sang, [do tham dâm], sổ lộc bị tước mất lầu
ngọc. Đáng phận hiển vinh, [do phóng đãng], bảng vàng tên xóa. Lúc sống bị ngũ
hình hành hạ, roi, gậy, lao dịch, lưu đày, tử hình. Khi thác, thọ tội trong tam đồ,
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Xưa kia ân ái, tới nay chẳng còn chi. Hùng tâm thuở
trước, nay ở chỗ nào? Khuyên khắp thanh niên, chí sĩ, tên lưu quyển vàng, hãy
dấy lòng giác ngộ, phá trừ chướng ngại ma sắc. Mặt trắng mơn mởn như đóa phù
dung, phải biết là đầu lâu đắp thịt. Diện mạo xinh đẹp, phấn son rực rỡ, bất quá
áo đẹp che đậy cầu tiêu thô lậu! Đối trước dung mạo như hoa, như ngọc, tâm đều
coi như chị, như mẹ. Kẻ chưa phạm lỗi tà dâm, hãy nên phòng ngừa lỡ bước.
Người từng làm chuyện ác, hãy gấp quay đầu. Mong sao xoay vần lưu thông,
 “Áo xanh ướt đẫm” là một từ ngữ bắt nguồn từ một câu thơ trong bài Tỳ Bà Hành của
Bạch Cư Dị: “Giang Châu tư mã thanh sam thấp” (Áo xanh của quan tư mã Giang Châu ướt
đầm). Trong bài hành ấy, Bạch Cư Dị nghe kỹ nữ đánh đàn đã cảm thương thân phận cô
ta, cám cảnh phận mình bị vua lưu đày. Từ ngữ này được dùng ở đây với ý nghĩa chê trách:
Các văn sĩ la cà trà đình tửu quán, uống rượu, nghe đàn, thân cận kỹ nữ. Theo truyền thuyết, thời Chiến Quốc, nàng Tây Thi là mỹ nhân đất Việt, là tuyệt thế giai
nhân. Dẫu khi nàng đau bụng, nhăn mày, người khác vẫn thấy xinh đẹp bội phần. Hàng
xóm có nàng Đông Thi ô dề, thô kệch, cũng bắt chước õng ẹo nhăn mày, khiến cho hàng
xóm sợ quá đóng chặt cửa, chồng phải núp kín, chẳng dám ló mặt ra ngoài. “Ngũ hình” là năm hình phạt, tức xi, trượng, đồ, lưu, đại tịch (đánh bằng roi, đập bằng
gậy, bắt làm lao dịch, lưu đày và tử hình).
khuyên lơn, chỉ bảo lẫn nhau, ngõ hầu nơi nơi cùng về nẻo giác, người người cùng
thoát bờ mê!
Giới dâm cách ngôn (Những câu cách ngôn răn dạy kiêng dâm)
* Chân nhân Trương Tam Phong nói:
- Con người sống trong vòng trời đất, bẩm thọ tú khí của Ngũ Hành, sẵn có
chí khí chánh trực. Chồng chồng, vợ vợ, chính là luân thường của loài người. Vượt
lễ, loạn luân, sẽ giống như cầm thú. Bậc chí sĩ hãy nên dốc trọn sức ngăn ngừa
chuyện dâm tà. Trong thiên hạ, loài ngu xuẩn nhất không chi bằng động vật, thế
mà bồ câu hễ kết thành đôi, trọn chẳng ăn vụng! Chim nhạn lẻ đôi, tiếng kêu ai
oán, chẳng chọn bạn đời mới! Người chẳng bằng chim, phụ rẫy danh xưng “con
người”, linh tánh kém thua loài vật! Hiềm rằng những kẻ mù quáng, ngây ngô,
chẳng hiểu “Sắc chính là Không”, khác nào bào huyễn, vẫn cứ cùng kẻ mặt
hồng, tóc mun ân ái triền miên!
Há có biết, ai nấy có cùng một tâm; phản tỉnh quán sát, sẽ đều có thể tự ngộ!
Khi các ngươi dâm loạn phụ nữ của người khác, hãy nên tự nghĩ: Nếu lúc ấy, vợ
ta bị kẻ khác dâm loàn, cười cợt, giỡn hớt bên gối, tình ý khăng khít, ta ở ngay
bên cạnh, thấy tình hình ấy, ắt sẽ tâm như bị đâm, tròng mắt đổ lửa, hùng hổ truy
sát, quyết chẳng chần chừ! Sao lại đến nỗi gian dâm phụ nữ của kẻ khác, quên
bẵng, chẳng nghĩ lại! Đột nhiên suy xét, há còn [đối với chuyện dâm loạn vợ con
người khác] rêu rao, đắc ý được chăng? Khi ấy, thiên địa, quỷ thần, soi xét bên
trên, chất vấn bên cạnh, oán, giận khôn cùng, muốn giết, muốn chặt ngươi! Có vị
nào chẳng trợn mắt, nghiến răng, nghĩ cách báo ứng ư? Tai họa dấy lên, đến nỗi
xoay sở chẳng kịp. Đã nói đến chỗ này, há chẳng nguội lạnh tấm lòng ư?
Hơn nữa, [do gian dâm] mà bỏ mạng dưới gươm bén, nát đầu nơi bậc thềm
hàng xóm! Giấc mộng dương trần chưa hết, đã vùi thân dưới chốn tuyền đài! Lửa
ma trơi xanh biếc, máu thắm đỏ ngầu, đều do bọn son phấn gây nên. Mỹ nhân
vốn là cọp thoa son trát phấn, há chẳng tin ư? Dẫu chẳng đến nỗi [táng mạng ngay
lập tức] như vậy, nhưng đối với kẻ gian dâm vợ người khác, kẻ có thế lực ắt sẽ
thưa kiện, đòi hỏi công đạo, kẻ yếu thế ắt sẽ nuốt hận suốt đời, tông tộc đeo nỗi
nhục chẳng giải trừ, vợ chồng cũng dứt tình trăm năm son sắt. Sống chết khôn
lường, lắm nỗi đổi thay! Hoặc ngấm ngầm mưu tính trả thù, hoặc âm thầm đau
lòng, hổ thẹn. Cha ông vốn chẳng có lỗi lầm to lớn, nhưng kẻ ngoài cuộc ức đoán:
[Chắc tổ tiên gã xấu ác ấy là phường] cực ác, nên mới đến nỗi có hạng con cháu
[hoang đàng] dường ấy, điếm nhục thanh danh nhiều đời! Để lại con rơi cho người
khác, rối loạn tông tộc. Dẫu [đứa con rơi ấy] đỗ đạt làm quan, tiếng tăm lừng lẫy,
rốt cuộc cũng mang tiếng xấu vô cùng, [vì thân phận bất minh]. Đã chẳng xứng
hợp nhân luân, lại còn truyền mãi tiếng chê cười! Do đó nói: Nỗi thảm độc sát Bào: bọt nước, huyễn: Hình tượng hư giả.
nhân, chỉ ảnh hưởng một người, [còn chuyện gian dâm] như lưỡi gươm bén không
dấu vết, giết người suốt mấy đời!
Nói chung, dâm niệm bắt nguồn từ hiếu sắc. Muốn dứt cội rễ lòng dâm, trước
hết, phải giữ sắc giới nghiêm ngặt. Hễ hiếu sắc, ắt sẽ tham dâm, ắt thân ta bất
chánh. Hễ đối trước bóng sắc mềm mại mê người, chẳng thể tự khống chế, ắt phần
nhiều sẽ bị kẻ khác kiềm chế. Do vậy, sẽ cư xử theo lẽ tư tình, phế trừ hiếu hữu!
Vứt bỏ cha, mẹ, anh, em, chẳng hề đoái hoài! Ngoại trừ chuyện ham muốn điều
này ra, mọi chuyện đều mơ màng, không hiểu biết! Do vậy, đối với thê, thiếp, con
cái, chẳng bận tâm kềm cặp, răn ngừa, mặc cho chốn buồng thêu rối loạn, uế tạp.
Đấy là báo ứng âm thầm, vẫn cứ mơ màng, chẳng biết.
Đã thế, kẻ hiếu dâm con cháu sẽ chết non, hậu duệ cũng lơ thơ, suy bại! Cớ
sao? Vì con cháu chính là sản phẩm tinh thần của ta. Nay đem tinh thần hữu hạn,
dành hết vào chuyện tìm hoa hỏi liễu vô cùng. Ví như dùng rìu đẵn cây, nhựa cây
đã cạn, quả trái ắt cũng tiêu rụng! Tinh thần của chính mình còn bải hoải, chẳng
trọn đủ, mong chi tập trung nơi thân con cái! Vì thế, sanh con ít ỏi, yếu đuối là
chuyện đương nhiên! Dâm căn của cha mẹ chẳng dứt, thân con bẩm thọ khí chất
[cha mẹ], nói chung đều chẳng ra gì! Lại truyền dòng nối dõi, đã bạc nhược, lại
càng bạc nhược hơn! [Rốt cuộc] dòng dõi tuyệt diệt, [đó là chuyện] xứng hợp lẽ
thường! Ương họa dữ dội vì dâm, kể sao cho xiết!
Than ôi! Con người thọ được mấy chốc, trăm năm chớp mắt đã qua! Dẫu
chẳng đoái hoài danh tiết, không tiếc thân mạng, sao không nghĩ tới cháu con,
chẳng mưu tính chuyện phụng thờ tổ tông? Nếu biết nghĩ suy, ắt sẽ hối hận chẳng
xuể! Vui sướng nỗi gì, mà vẫn mong theo đuổi dục vọng? Đến nỗi ni tăng, góa
phụ, con sen, chị ở, ả đào, kỹ nữ, [những kẻ ấy] đều có mối liên quan, ràng buộc
đến danh phận và gia đình ta, càng dễ thấy rõ, chẳng cần phải rườm lời! Người có
chí, ắt lấy thanh tịnh làm nền tảng, giữ lòng thành kính, kiên nhẫn giữ gìn, lập chí
quyết liệt, giữ tâm bất động, hòng bồi dưỡng đức hạnh của chính mình. Hết thảy
những sách vở dụ người sụp bẫy, xúi giục lòng dâm, đều giao cho ngọn lửa mạnh,
hòng tạo phước cho dân đen trong thiên hạ. Bạn ác dâm đãng, hãy xa lánh, chẳng
giao du. Thay đổi cái tâm hiếu sắc, gom góp tinh thần, mong cầu làm chuyện hữu
ích, sẽ thấy có danh nào mà chẳng lập, có lợi nào mà chẳng đạt được? Ngũ phước
bất tận, rốt cuộc sẽ trọn đủ nơi thân ta. Tôi khuyên lơn như thế đó!
* Uông Châu Thứ nói:
- Trong các ác nghiệp, chỉ có sắc là dễ phạm nhất. Khiến cho đức hạnh bại
hoại, chuốc lấy tai họa, cũng không gì hơn được chuyện này! Hãy thường nghĩ tới
câu “vạn ác dâm vi thủ” (muôn điều ác, dâm đứng đầu). Trong thế gian, ác nghiệp
vô cùng, cớ sao coi dâm là nghiệp nặng nề nhất? Ấy là vì dâm niệm vừa sanh, các
niệm [xấu ác] đều khởi! [Nếu như] tà duyên chưa hội đủ, vì cái tâm huyễn vọng
đã sanh, [do nhận thấy] không có cách nào dẫn dụ kẻ khác, tâm bèn bày mưu tính
kế. Nếu gặp đôi chút trở ngại, bèn sanh lòng sân hận. Dục tình điên đảo, sanh tâm
tham luyến. Do hâm mộ những gì người khác đang có, bèn sanh lòng ghen ghét,
đoạt người yêu dấu của người ta, sanh tâm sát hại, chôn sạch liêm sỉ, luân lý sứt
mẻ. Đủ mọi ác nghiệp do vậy mà dấy lên. Các thứ thiện nguyện, do vậy tiêu mất.
Vì thế nói: “Muôn điều ác, dâm đứng đầu”. Hễ dâm tâm dấy động, dẫu chưa thật
sự làm chuyện ấy, đã chất chứa, tạo tác ác nghiệp như thế! Huống hồ những kẻ
công khai thực hiện, chẳng biết nể nang ư? Cõi đời có bậc thiện nhân trung hậu,
nhưng thân thể về sau chẳng khá, hoặc bậc văn nhân tài hoa, suốt đời nghèo túng,
thất vọng, nguồn bệnh đều do lẽ này. Nay muốn đoạn trừ căn bệnh ấy, hãy nên
trong lúc dấy niệm, chặt đứt gốc bệnh. Thái Thượng [Cảm Ứng Thiên] chẳng
quở “tư mỹ sắc” (私美色: sở hữu người có sắc đẹp), mà nói “kiến tha sắc mỹ,
khởi tâm tư chi” (thấy người khác có sắc đẹp, dấy tâm riêng tư). Ấy là vì chỉ dấy
lên cái tâm ấy, tội đã chẳng thể trốn được!
* Giết người chỉ ảnh hưởng một thân; gian dâm cùng người khác, độc hại
đến mấy đời! Không chỉ chồng người ấy mang tiếng chẳng biết trông chừng vợ
con, mà suốt đời còn khó thể ngẩng đầu! Trên là bố mẹ chồng, dưới là con cái,
chẳng ai không xấu hổ, mặt ủ, mày chau, đau thấu tâm can. Cũng có khi, chồng
giận giết vợ, cha vì giận mà giết con gái. Thậm chí vì chuyện ấy, tuyệt đường con
cái của người khác, chấm dứt dòng dõi của người ta! Cũng nên nghĩ: Sướng vui
thoáng chốc, đạt được những gì? Vô duyên vô cớ đẩy vợ con nhà lành vào hầm
lửa, chẳng màng trong cõi âm sẽ có báo ứng rành rành! Sao mà tấm lòng tàn nhẫn
quá sức vậy?
* Người ở góa, quyết giữ tiết hạnh, vốn do một điểm trinh tâm, quỷ thần
kính ngưỡng. Nay do mày đi mắt lại, khiến tâm người ấy dao động, chẳng còn giữ
nổi mình! Tiết hạnh khổ nhọc gìn giữ trước kia, chốc lát mất sạch! Tội ác [dụ dỗ
ấy] to lớn cùng cực, chẳng có gì to hơn! Đến nỗi chốn khuê các tan hoang, chẳng
màng tiếng xấu đồn khắp, mọi người cùng ghét bỏ. Dẫu có người xin cưới, thường
là sẽ bị lộ chuyện, [bị nhà chồng] đuổi về! Cha mẹ nuốt thẹn, anh em đeo nhục!
Do vậy, có người phẫn uất quyên sinh, hoặc vì uất ức mà tổn thương thân thể. Có
oán cừu gì với người ấy mà cứ phải làm chuyện hại người, hại mình vậy thay?
* Phụ nữ há biết lẽ cao xa? Hoặc do yêu mến, hâm mộ nhất thời, bèn nguyện
kết vầy loan phụng. Hoặc do trẻ tuổi, thiếu hiểu biết, xiêu lòng trước những lời
dụ dỗ xấu xa. Đáng thương ngọc trắng không tỳ vết, bỗng bị lấm lem. Về sau, dẫu
hối tiếc suốt đời, nỗi dâm ô một thuở chẳng có cách nào gột rửa! Cũng có kẻ do
một phen nhuốm bẩn, bèn đánh mất liêm sỉ cả đời, [cam bề đọa lạc]! Nói đến chỗ
này, đúng là nguội lạnh tấm lòng! Vì thế, bậc quân tử thời cổ, tuy kẻ khác (nữ
nhân) nắm tay áo chèo kéo, hoặc vén màn kề cận, không ai là chẳng nghiêm trang
cự tuyệt, đẩy lùi cơn sóng cuồng loạn mê đắm của ả mày ngài, khéo léo chỉ bày,
căng buồm gấm, dẫn về bến đạo. Nếu có thể giữ lòng thơm thảo, giữ vẹn trinh tiết
[cho người nữ ấy]; đấy cũng chính là do tổ tiên mấy đời [gia hộ, khiến cho người
nữ ấy] được hưởng ân trạch sâu dầy của bậc có lòng nhân!
* Đối với con sen, tớ gái, [chủ nhân] dễ làm chuyện gian dâm nhất! Chẳng
biết những hạng người ấy, vốn là lương dân, bất quá do gặp hoạn nạn, mà phải
khuất thân làm tôi tớ. Do nghèo hèn mà tự bán mình, hiềm rằng đã làm thân tôi
mọi, [chủ nhân lại nỡ lòng giở trò gian dâm] rối loạn phẩm tánh của họ ư? Huống
chi, nếp nhà chẳng nghiêm, gia đạo bất hòa, phần lớn đều là do chuyện này. Hoặc
là vợ ghen tức, đánh đập [tớ gái] đến nỗi tổn thương sanh mạng; hoặc là kẻ tôi tớ
hung hãn cắn ngược lại chủ. Hoặc cha con do chẳng hay biết, mà cùng lấm chung
bụi trần, hoặc anh em cùng mê muội chung chạ [với một nàng hầu]. Quá đáng
hơn nữa, mặc kệ ruột thịt máu mủ của mình vất vưởng trong hàng tôi tớ. Con cháu
đời sau chẳng hay biết, lầm lẫn làm chuyện ô nhục, [tạo thành nỗi nhục loạn luân].
Mang tiếng là chủ tớ sai khác, bên trong thật ra là anh em, họ hàng! Thương phong
bại tục, chẳng nỡ nói nổi!
* Lại có kẻ giả vờ ham thích học Phật, để dụ dỗ kẻ bóng sắc trong chốn
Không môn, dám ô uế đất Phật, bại hoại sự thanh tu. So với sự dâm ác tầm thường,
tội lỗi này chắc chắn nặng gấp trăm lần!
* Lại có hạng người cuồng si khác, săn lùng nam sắc. Bề ngoài đội danh
nghĩa bạn bè, trong ngầm mưu tình chồng nghĩa vợ! Họ do thấy mọi người coi
thường, [tự nhủ] “ta cũng chẳng phải là kẻ chánh trực [cần gì bận tâm]”. Còn có
những kẻ kém hèn hơn nữa, cợt nhả bọn kép hát trẻ trung, suồng sã cùng lũ đầy
tớ đẹp trai. Tâm bị dục vọng nhiễu loạn, trong ngoài chẳng phân biệt! Ta đã dẫn
nước vào nhà, kẻ khác sẽ thừa dịp gió thổi mà phóng hỏa, khi ấy, sẽ có những
chuyện chẳng thể dự liệu được!
* Kẻ khác thì la cà chốn thanh lâu, tự xưng là chuyện “phong lưu, tao nhã”.
Chẳng biết thân gái làng chơi hạ tiện, [họ phô bày] trăm kiểu ôn nhu, không gì
chẳng là lưỡi câu, mồi ngon vây hãm con người. Hễ bước vào đó, người tột bậc
thông minh cũng bị mê hoặc, đến nỗi tâm chí rối loạn, bỏ mặc nghề nghiệp chánh
 Ý nói: Có những gia đình cha lẫn con đều cùng có máu trăng hoa, tằng tịu với cùng một
đứa tớ gái mà không biết. Nguyên văn “ngã ký dẫn thủy nhập tường, bỉ tất thừa phong phóng hỏa”, ý nói: Ta lo
dâm loạn, ắt sẽ lơi lỏng gia quy, quản chế gia tộc lỏng lẻo, khác nào xoi tường vây quanh,
cho nước tràn vào nhà. Kẻ khác sẽ thừa dịp thuận tiện đánh phá, như người thấy gió đúng
hướng bèn phóng hỏa.
yếu, phá sạch gia sản, dấn mình vào bọn lưu manh. Huống hồ gặp phải người nữ
mắc bệnh truyền nhiễm, hoặc bệnh hoa liễu, lây nhiễm cho mình, rụng lông mày,
mất mũi, đau đớn khó thể chịu đựng! Há chẳng chỉ hổ thẹn với bạn thân, lại còn
bị vợ con chán ghét. Dẫu được lương y chữa trị, giữ vẹn tánh mạng, nhưng chất
độc đã thương tổn tận ruột, đa số là đến nỗi chẳng thể sanh con, đẻ cháu. Dẫu có
sanh nở, nhưng do chất độc từ trước đã quá nhiều, [đứa con] thường sanh ghẻ nhọt
lạ kỳ, hoặc bệnh đậu nguy cấp, đến nỗi chết non. Vì thế, dòng dõi tuyệt diệt, hối
làm sao kịp?
* Ông Nhan Quang Trung nói:
- Lòng dục của thiếu niên có chỗ nào chẳng thấu tới? Ví như kẻ ham hố ăn
uống, càng phóng túng, càng cuồng loạn. Tận lực khắc chế, giảm bớt, ắt thói tham
ăn sẽ giảm nhẹ. Lại có những kẻ mặc tình bày ra tà thuyết, hòng cổ vũ lòng dục.
Họ bảo: “Chẳng phải là bậc nam tử thông minh, sẽ không thể hiếu sắc!” Chao ôi!
Chim cút bươn bả tìm bạn tình, cáo uốn éo mong được yêu thương, những loài đó
[làm như vậy], chẳng phải là do tánh tình thông huệ! Buông lung lòng dục của
ta, làm chuyện vô lễ, có khác gì cầm thú hay chăng? Đã thế, đứa thiếu niên, bậc
anh tài, làm chuyện ô uế gái nhà lành, ắt gặp họa cõi âm sai người truy sát đáng
sợ! Do cậy tài mà phóng đãng, ắt phải sầu “cửa nhà hao tổn, bệnh tật nguy ngập”!
Săn lùng nam sắc, ắt khiến cho kẻ khác tủi nhục, mà phẩm hạnh của chính mình
cũng bại hoại đáng thẹn. Làm thế nào để dần dần chịu đựng, dần dần kiêng ngừa,
hòng giảm bớt những nỗi đoạn trường, tích tập một vài âm đức? Những kẻ đề
xướng tà thuyết mê hoặc người khác, ắt tội ngang ngửa với những kẻ dâm loạn
ấy!
* Trước nay, chốn tình dục phóng túng, dẫn dắt dâm tà, không chi hơn nơi
thành thị. Tụ tập tán gẫu, không gì chẳng bàn đến chuyện gái gú. Vầy đoàn la cà
phố hoa ngõ liễu, [nếu có nữ nhân] vô ý liếc mắt, liền bảo họ đa tình. Giữa đường
gặp gỡ, liền khoe là kỳ ngộ! Coi trộm ngọc cắp hương là chuyện vui thú, xem
“bại hoại luân thường, tổn thương phong hóa” như chuyện bình thường. Sách động
thành phong trào, chẳng hề mảy may kiêng dè! Chẳng biết “tâm vô nhị dụng”,
mê man say hoa đắm liễu, ắt phế bỏ chuyện kiếm sống. Do vậy, kẻ kinh doanh
vốn liếng dần dần tiêu tán; kẻ làm công cho người khác, khó giữ mãi kế sinh nhai!
Đã thế, cái nhân ác ngày càng chất chứa, tội lỗi oan nghiệt ngày càng thêm sâu
dầy. [Hậu quả] rõ rệt là nhà cửa suy sụp, phá sạch tài sản, uổng công nhọc nhằn
bươn chải nơi phố thị. [Hậu quả] ngấm ngầm là bớt lộc, giảm thọ, mất sạch vinh
hoa sẵn có trong mạng. [Hệ lụy] lớn thì là cha mẹ không nhờ cậy được, gan đau,
ruột nứt. Nhỏ thì thân bại, danh liệt, lưu lạc, đáng than thở thay! Thậm chí,
[chuyện gian dâm] bại lộ, gặp phải kẻ hung tàn, cái thân bảy thước trong khoảnh
khắc làm quỷ dưới ngọn đao! Hiềm rằng tai họa do dâm dật đã rành rành; hễ nói
động đến, [bèn có kẻ chê bai] “nói chuyện viễn vông”, cam tâm dấn thân vào
phường bại hoại!
* Trước mặt lũ hậu sanh trẻ dại, người đời ưa nói chuyện dâm ô, coi đó là
chuyện vui cười. Nào biết lũ chúng nó non trẻ, chẳng hiểu biết, không biết lẽ lợi
hại, nghe những chuyện ấy, dục niệm bừng bừng. Do vậy, phá hỏng tấm thân thiên
chân chưa phát triển trọn vẹn, khô kiệt tủy chưa tròn đầy, đến nỗi yếu đuối thành
bệnh, thậm chí chết non, họa hoạn suốt đời. Đúng là do kẻ chung quanh cổ vũ mà
nên nỗi! Ôi! Chẳng thể dùng lời lẽ chánh đáng để uốn nắn, răn nhắc [bọn thiếu
niên], thì đã chẳng phải là bạn tốt, lại còn hùa theo chỉ vẽ [bọn chúng theo hướng
dâm tà], địa ngục Kéo Lưỡi chính vì bọn người ấy mà kiến lập.
* Người xưa bảo:
- Đọc dâm thư có năm điều hại.
1) Trở ngại nghề nghiệp chánh đáng là điều hại thứ nhất.
2) Hao tổn tinh thần là điều hại thứ hai.
3) Loạn tâm chí là điều hại thứ ba.
4) Hoặc bạn bè mượn xem, ắt hại bạn bè, [đó là điều hại thứ tư].
5) Hoặc con cháu lén xem, sẽ hại con cháu, [đó là điều hại thứ năm].
Nói chuyện dâm uế có ba tội:
1) Phô bày điều xấu của kẻ khác.
2) Tổn thương đức hạnh của chính mình.
3) Khinh nhờn trời, đất, thần minh.
Nếu có thể dùng thân [làm gương] hướng dẫn chúng sanh, hoặc gặp kẻ đọc
những sách tệ hại kể chuyện tư tình nam nữ, hãy nên viện dẫn quả báo do trinh
lương hay dâm tà, hòng khuyên bảo hết thảy. Hoặc gặp chỗ đông người, bèn thuật
lời chánh trực. Hoặc trong phòng kín, ra rả khuyên can. Chẳng sợ bị châm chọc,
chẳng nề hà [kẻ khác chê cười] hủ bại. Mềm mỏng khuyên bảo, ắt trong trăm ngàn
người, sẽ có kẻ được hưởng lợi ích.
Gần đây, kẻ buôn bán tiểu thuyết dâm đãng ngoài phố rất nhiều. Phàm những
lời dâm uế khó thể chịu nổi, chẳng thể thốt nên lời, đều công khai viết thành sách,
được coi là tác phẩm tao nhã! Không “tác phẩm” nào chẳng tả chuyện lén lút hẹn
hò, toàn những chuyện ô danh, thất tiết! Sau đấy, [những kẻ phóng đãng trong các
“tác phẩm” đó] đâm ra lại vinh hiển, đoàn viên. Tả những chuyện thối tha trong
chốn buồng the thành chuyện chẳng có mảy may nào đáng trách! Kẻ khuê nữ vô
tri, lầm tưởng [những thói bại hoại ấy] là chuyện [tao nhã] của hàng tài tử, giai
nhân. Vì thế, mất trinh, thất tiết, điếm nhục gia phong, vạn năm khó thể gột rửa!
Đến nỗi khơi gợi những thói xấu nơi bọn trẻ nhỏ chưa dậy thì, khơi dậy lòng hâm
mộ của bọn dân quê. Đủ mọi nỗi họa hại, chẳng thể nói trọn! Lại còn có những
tranh ảnh dâm tà, càng là phương tiện dẫn dắt lòng dâm. Những thứ ấy đều là
những thứ gieo nọc độc vào lòng người nặng nhất! Người có quyền lực, có chức
vị kiểm soát ngôn luận, nếu có thể thật sự cấm chỉ nghiêm ngặt, hủy sạch mọi bản
in, sẽ giúp ích cho phong hóa chẳng cạn đâu nhé!
* Ông Châu Thiên ở Lạc Phố nói:
- Niềm vui thỏa chốn khuê phòng, vốn chẳng phải là tà dâm. Vui vầy cùng
thê thiếp, tuy chẳng có hại, hoặc trở ngại gì, nhưng chớ nên thỏa thích quá độ!
Chớ nên phóng túng lòng dục; buông thả dục tình, sẽ thành họa hoạn. Vui đến tột
cùng, ắt sẽ sanh buồn! Cổ nhân đã dạy như vậy. Con người tinh lực hữu hạn, dâm
dục vô cùng. Đem tinh lực hữu hạn, dâng cho dâm dục vô cùng; chẳng trách tuổi
còn non trẻ, thọ mạng đã đứt ngang! Người chưa già cả, thể lực đã suy sụp trước!
Huống chi mang phận con người, trên phụng dưỡng cha mẹ, dưới nuôi nấng vợ
con. Nói theo lẽ lớn, thì có công danh sự nghiệp, nhỏ hơn là phải gánh vác sản
nghiệp, chi dụng trong nhà, [những điều ấy có] mối quan hệ chẳng cạn! Thế mà
bỏ mặc đó, chẳng màng hỏi tới. Tham tiệc tùng, hoan lạc chốc lát, chẳng đoái
hoài nỗi lo sầu, nguy hiểm mai sau! Thật sự là cái tâm gì vậy? Hơn nữa, người ít
ham muốn, ắt đông con trai; kẻ tham dâm thường chẳng có ai nối dõi! Bởi lẽ, tinh
lực suy vi, bạc nhược, khó thể sanh con. Do vậy, đến nỗi con cái lơ thơ, hiếm
muộn! Thậm chí tuyệt tự, chẳng có kẻ nối dòng! Đấy là họa hại [của kẻ tham đắm
dục sự], nói sao cho xiết!
* Châu Tư Mẫn nói:
- Con người sống trong vòng trời đất, [trở thành] bậc thánh hiền, hào kiệt,
đúng là những chuyện nên làm, nhưng tinh thần cần phải trọn đủ mười phần thì
mới hoàn thành sự nghiệp mười phân vẹn mười. Nếu chẳng biết tiết dục, giữ vững
tinh thần, dẫu có chí hướng, tâm lượng tột bậc, nhưng do tinh thần tối tăm, sức lực
mệt mỏi, chưa hề có kẻ nào chẳng bỏ cuộc giữa chừng.
* Lửa dục thiêu đốt, tinh tủy dễ cạn. Vì thế, đến nỗi giảm mất thông minh,
trí lực kém hẳn! [Vốn là] kẻ hữu dụng, chẳng đầy mấy năm, trở thành hạng phế
nhân vô dụng! Lại còn dần dần tạo thành bệnh lao! Bởi lẽ, chẳng cần phải thường
gần gũi nữ sắc, chỉ ngay trong lúc ở một mình, hễ một niệm xoay chuyển [tơ tưởng
dâm sự], đã thừa đủ để chôn vùi đời này! Vì thế, Tôn chân nhân nói: “Mạc giao
dẫn động hư dương phát, tinh kiệt dung khô bách bệnh xâm” (Đừng nghĩ vẩn vơ,
dương khí uổng. Tinh cạn, mặt khô, trăm bệnh sanh) là nói đến đạo lý này.
* Sắc là cửa ải [khó vượt] bậc nhất của lũ thiếu niên. Chẳng phá được cái ải
ấy, dẫu cho tài cao, tuyệt học, đều chẳng có cách nào dùng được! Bởi lẽ, muôn sự
lấy thân làm gốc. Sở dĩ cái thân máu thịt có thể tồn tại lâu dài [trong cõi đời] là
do tinh, khí, huyết. Huyết là Âm, Khí là Dương. Âm Dương ngưng đọng thành
Tinh. Tinh chứa trong tủy xương, trên thông đến Tủy Hải, dưới thấu đến Vĩ
, là món quý báu nhất trong thân người. Vì thế, nước Thiên Nhất chẳng cạn,
tai mắt lanh sáng, chân tay, thân thể khỏe mạnh. Như nước thấm nhuần vật, trăm
vật đều tăng trưởng. Lại như dầu duy trì ngọn đèn. Dầu chẳng cạn, ắt đèn chẳng
tắt. Vì thế, bậc tiên Nho coi “tâm hỏa giáng xuống, thận thủy thăng lên, điều hòa
lẫn nhau thì mới có thể dưỡng sinh”. Bởi lẽ, [lửa nơi] tâm là quân hỏa (君火: lửa
đứng đầu trong các thứ hỏa nơi thân). Lửa có tánh nóng bốc lên, thường thừa dịp
huyết khí chưa định mà dâm niệm hừng hực dấy lên. Hễ quân hỏa vừa động, ắt
can hỏa (lửa nơi gan) và thận hỏa đều động. Thận thủy bị nung nấu, tiết ra ngoài,
cạn kiệt bên trong.
Nam tử mười sáu tuổi đã có tinh khí, cổ nhân [quy định] ắt phải sau ba mươi
tuổi mới cưới vợ. Đấy là nhằm giữ cho gân cốt cứng cỏi, giữ gìn nguyên khí. Hơn
 Tôn chân nhân ở đây không phải là Tôn Bất Nhị (tức Thanh Tịnh Tản Nhân, một trong
bảy đại đệ tử của Vương Trùng Dương, sáng tổ Toàn Chân Giáo), mà là mỹ hiệu của Tôn
Tư Mạo (541-682). Tôn Tư Mạo là một đạo sĩ, đồng thời là một y sư kiêm dược sĩ trứ danh,
sống vào đời Đường. Ông từng được tôn xưng là Dược Vương, thanh danh sánh ngang Hoa
Đà và Biển Thước. Ông nổi tiếng học rộng, thông minh từ bé, thông thạo kinh điển Đạo gia
và kinh Phật. Ông từng làm ngự y cho các vua Đường Thái Tông, Châu Tuyên Tông, Châu
Tĩnh Đế, Tùy Văn Đế. Bộ sách y học nổi tiếng nhất của ông là Bị Cấp Thiên Kim Yếu Phương.
Sau khi mất, ông được lập miếu thờ tại quê nhà ở núi Dược Vương, huyện Diệu, tỉnh Thiểm
Tây. Tống Huy Tông sắc phong đạo hiệu Diệu Ứng Chân Nhân, nên người ta thường gọi
ông là Tôn Chân Nhân. Đạo giáo tôn xưng ông với thánh hiệu Dược Vương Quảng Viện
Diệu Tế Chân Quân. Tủy Hải (髓海) là tên gọi khác của não. Não được gọi là Tủy Hải vì thiên Linh Khu trong
Hoàng Đế Nội Kinh có câu: “Não vi tủy chi hải” (Não là biển của tủy). Vĩ Lư (尾閭) có nghĩa gốc là “nơi nước quy tụ lại”. Về sau, từ ngữ này được dùng để chỉ
huyệt Vĩ Lư ở chót cùng của xương cụt (phần kết thúc của xương sống, giáp với xương
mông). Thiên Nhất vốn là một khái niệm trong Hà Đồ Lạc Thư. Trong đó có quan niệm những
số chỉ trời, thuộc về Dương, tượng trưng bằng chấm trắng, lần lượt gọi là thiên nhất, thiên
tam v.v… Sách Lạc Thư Tinh Nghĩa nói: “Một âm, một dương giao hội lẫn nhau, cửu trù
sanh ra từ đó, cửu cung được phối ứng từ đó. Từ thiên nhất sanh ra nước, nên phương
Bắc thuộc về thiên nhất, là vận mở đầu cho thượng nguyên”. Ở đây, do sánh ví tinh tủy
nằm dọc theo cột sống từ cuối não xuống đến tận xương cùng, giống như nước từ trên trời
đổ xuống, cho nên tinh tủy được gọi là “thiên nhất chi thủy”. Do chẳng phóng túng dâm
đãng, tinh tủy đầy đủ; vì thế, nói ví von là “nước Thiên Nhất chẳng cạn”.
nữa, huyết khí phần nào đã định, cũng chẳng đến nỗi như bọn thiếu niên tự hao
tổn vậy. Lũ trẻ gần đây, kết hôn quá sớm, gân cốt chưa vững vàng, nguyên thần
hao tán. Kẻ chưa lập gia đình mà trước hết đã trừ bỏ căn bản này! Đứa đã cưới vợ
rồi, càng [ra sức] đẵn chặt mầm mống. Chẳng đầy mấy năm, tinh huyết tiêu vong,
èo uột, chẳng thể phấn chấn nổi! Tuy vẫn mang hình hài con người, đã hoàn toàn
ghi tên trong sổ quỷ! Do vậy, con em bất tài, cũng là vì cha anh chẳng dạy! Nay
vì họ lập ra ba nguyên tắc lớn, chính là:
1) Siêng năng làm việc để cái tâm bận bịu.
2) Nam nữ cách biệt, hòng ngăn ngừa họa hoạn.
3) Giao du thận trọng để chấm dứt chuyện [bị bạn bè xấu xa] dụ dỗ, mê
hoặc.
Như thế thì trong ngoài đều cùng tu, đức nghiệp mỗi ngày mỗi tiến, trách
nhiệm của cha anh cũng trọn vẹn!
* Muốn kiêng hạnh dâm ô, ắt phải bắt đầu bằng kiêng ngừa dâm niệm. Hễ
dâm niệm dấy lên, ắt dâm hạnh sẽ thuận theo! Như vậy, dùng điều gì để khống
chế? Chính là đừng thân cận bạn tà, đừng vào chốn tà vạy, đừng đọc sách dâm tà,
đừng nghe lời tà vạy. Bởi lẽ, hễ thân cận bạn tà, ắt bạn tốt ngày một lơ là, tự nhiên
sẽ tiêm nhiễm những lời dẫn dụ [làm bậy], dần dần trở thành kẻ hạ lưu, phóng
túng hoang đàng, không chuyện gì chẳng làm! Hễ vào chốn tà vạy, khó giữ chánh
niệm, tự nhiên tâm háo hức, chẳng giữ vững được. Phóng túng khoảnh khắc, hối
hận suốt đời. Nói nghĩ đến đây, chẳng đáng răn dè ư?
Còn như sách tà dâm, lời lẽ tà vạy, bất quá là trò du hý của văn nhân và
những lời lẽ cợt nhả của lũ người rảnh rỗi. Bọn họ muốn viết thành một câu
chuyện, tự nhiên nói đến [kết cục] đoàn viên, đẹp đẽ, toàn là những lời lẽ bịa đặt
dối trá, há nên tin là chân thật ư? Nếu nghĩ “đôi khi xem đọc cũng chẳng sao, há
có thể lay động ta ư?”, [những tà niệm] ắt sẽ ngấm ngầm tăng trưởng, âm thầm bị
hại mà không hay biết. Nói chung, cách để giữ thân không chi bằng ngăn ngừa
trước, chớ nên tự lơi lỏng chút nào, thà bị kẻ khác cười chê ta là kẻ chấp trước
ngây ngốc, chớ nên tự cho mình là hạng viên thông! Nếu thường ngày chẳng [tự
giữ gìn bản thân] rất nghiêm, làm sao bảo đảm lúc gặp chuyện sẽ không thất thố?
* Triệu Hồng Bảo nói:
- Tiết chế sắc dục, nói dễ dàng, chưa chắc làm được! Một niệm vừa sơ sẩy,
lỡ bị chìm đắm, sẽ khó thể quay lại. Mỗi niệm đều phải kiên nhẫn, ngay trong khi
cảnh đột ngột thay đổi, [mà vẫn có thể giữ vững ý niệm], chỉ có cách là trong
thường nhật, hãy thường xem giáo huấn của những bậc tiên triết, đặt những câu
cách ngôn [của họ] quanh chỗ ta ngồi. Giữ tâm thanh tịnh, ít ham muốn. Đối với
lễ nghĩa, pháp luật, nhân quả, hãy tin tưởng chắc thật, chẳng ngờ vực. Ngẫu nhiên
tà niệm dấy động, hãy lập tức thống thiết đoạn trừ. [Làm được] như thế, đối trước
cảnh, sẽ có thể tự dũng mãnh tỉnh ngộ. Còn như trong lúc nam nữ giao tiếp, hãy
tận lực tránh xa những điều tỵ hiềm “buộc dép trong ruộng dưa, chỉnh mũ dưới
gốc mận”. Dẫu là kẻ hết sức thân thiết sâu đậm, nhất định là cần phải phân định
trong ngoài rõ ràng. Mỗi lời nói, mỗi tiếng cười, chớ nên cẩu thả. Vọng tâm sẽ tự
nhiên chẳng bén mầm nữa! Đấy chính là phương pháp sửa đổi, gạn lọc tận nguồn
gốc vậy.
* Phàm nhân dễ bị sa chân sảy bước nhất khi đối trước nhan sắc xinh tươi.
Trong khoảnh khắc bỗng dưng khó thể kiềm chế [cái tâm ham muốn], hãy thử
nhắm mắt, chẳng dòm, giữ cho tấm lòng chẳng loạn. Bất quá có thể giữ vững ý
niệm trong giây phút đó, [sẽ vì thế] mà có thể đỗ đạt cao, có địa vị vinh hiển, vẻ
vang cha ông, để lại phước cho con cháu. So với những kẻ nửa đời vẫn đèn xanh,
quyển vàng , và những kẻ tích lũy công đức theo kiểu khác, [phương pháp tích
đức bằng cách khắc chế lòng dục] sẽ là đỡ tốn sức mà công to. Sao lại khổ sở vì
sự hoan lạc trong khoảnh khắc, vứt bỏ công danh suốt cả một đời, chuốc lấy sự
độc hại suốt kiếp? Nếu chẳng kiềm chế nghiêm ngặt, phóng túng tình ý, [rốt cuộc]
kẻ phấn trắng mày xanh (mỹ nữ) chớp mắt đã thành không, nhưng ta do vậy mà
giảm thọ, giảm lộc, mất mạng! Lại còn mạng đáng hưởng phú quý, [do dâm tà
mà] đổi thành bần tiện; đáng nên có con, do bị trừng phạt, nên không có người
nối dõi, vợ con mắc phải báo ứng dâm dật, con cháu bị báo ứng khốn cùng, đủ
mọi nỗi ác nghiệp, chẳng phải chỉ có một! Ôi! Có hối thì đã muộn màng!
* Người hiện thời trong cuộc sống thường nhật đều chẳng biết cẩn trọng [đối
với ngôn ngữ, hành vi]. Hoặc là vợ chồng cợt nhả, giỡn hớt trước mặt con cái,
hoặc nuôi tiểu thiếp bôi son trát phấn, hoặc bỏ mặc vợ rong chơi bên ngoài, hoặc
tôi tớ phạm lỗi gian dâm chẳng nghiêm cấm, đủ mọi lẽ không nghiêm túc, lấy gì
để giữ yên nhà cửa? Nếu bớt ham muốn, giữ tâm trong sạch, nói cười chẳng cẩu
thả, trong ngoài phân định rõ ràng, phòng ngừa đúng pháp, trong chốn khuê môn,
đối đãi cung kính với nhau như khách, sẽ chẳng khiến cho người khác yêu kính
ư?
* Diêu Đình Nhược nói:
 Tiên triết (先哲): Các bậc thánh nhân, hiền nhân thuở trước. Ý nói vẫn phải cặm cụi học hành, chẳng đỗ đạt gì hết.
- Người đời nay chỉ riêng mình không dâm, sẽ chỉ thành tựu sự nghiệp của
chính mình. Sao bằng một khuyên mười, mười khuyên trăm, trăm khuyên ngàn
vạn, lại còn truyền bá đến đời sau vô cùng, để cùng chứng thiện quả ư? Giống
như vãi hạt giống, một thưng hạt rơi xuống đất, thâu hoạch tính bằng thạch.
Gieo vô cùng, sanh trưởng cũng sẽ vô cùng, nhưng cần phải siêng gieo, đừng bỏ
ruộng hoang. Lại như thắp đèn truyền nhau, một ngọn đèn đã thắp, ngàn ngọn đèn
sẽ đều được thắp. Đèn vô lượng, quang minh cũng vô lượng, nhưng đèn ấy phải
do ta truyền [tiếp tục thắp sáng], đừng vì ta mà diệt. Chỉ sợ kẻ chẳng thật tâm
gắng sức khuyên lơn mà thôi! Nếu nói “khuyên người ta, người ta chẳng thuận
theo” [để rồi không làm], tức là giống như gieo hạt, nhưng hạt chẳng sanh, truyền
đăng mà đèn chẳng sáng, có lẽ ấy hay chăng?
* Vương Đại Khế hỏi Liên Trì đại sư: “Đệ tử tự xem bài văn Giới Sát của
thầy, bèn ăn chay trường. Chỉ có điều sắc tâm hừng hực, chẳng thể diệt trừ, xin
thầy hãy phương tiện răn dạy, khiến cho con quán [tai họa của] dục lạc cũng thê
thảm giống như sát sanh”. Sư đáp: “Sát là chuyện đau khổ. Vì thế, dễ diễn tả tình
trạng thê thảm. ‘Dục’ là chuyện vui, nên khó thể diễn tả nỗi thảm khốc. Nay tôi
nêu một thí dụ. Công khai bỏ thuốc độc trong thức ăn dở tệ, đó là nỗi thảm độc
của sát. Ngấm ngầm bỏ thuốc độc trong thức ăn ngon, đấy là sự thảm độc của
dục. Người có trí suy nghĩ [sẽ hiểu rõ]”.
* Phàm nhân hễ thấy sắc đẹp, bèn dấy tà tâm, các thứ ác tâm đều sanh. Ác
tâm sanh, lương tâm chết ngắc! Chỉ có điều khi tà niệm đột ngột phát khởi, chẳng
thể khống chế, hãy nghĩ đến một chữ Chết, hoặc nghĩ thân mình đang gặp chuyện
hoạn nạn, khó khăn, [tà niệm] ắt sẽ nhạt bớt rồi ngưng dứt. Nếu không, hãy nghĩ
người nữ ấy sau khi chết đi, thịt rữa, xương mục, hôi thối chẳng thể gần được. Sắc
tướng trước mắt không gì chẳng phải là huyễn cảnh, ắt sẽ giật mình, tỉnh ngộ.
Nếu không, hãy nghĩ ta do yêu thương cô này, mà hủy hoại danh tiết của cô
ta, tức là ta nhơ bẩn như phân đất. Giữ vẹn danh tiết cho cô ta, danh tiết ấy quý
như châu ngọc, hãy nên thương xót, thành toàn cho cô ta. Do càng yêu thương,
càng chẳng nỡ lòng ô uế cô ta. Như thế, ắt sẽ sanh lòng kính trọng nghiêm túc.
Nếu không, hãy nghĩ: Ta do mong cầu hoan lạc chốc lát, mà hao tổn công danh,
giảm mất phú quý, giảm bớt thọ mạng của chính mình, không kẻ nối dõi, thanh
danh bại hoại, đều do vì chuyện này. Như thế, ắt sẽ mạnh mẽ tỉnh ngộ!
Nếu không, hãy nghĩ: Cái tâm hổ thẹn, ai nấy đều có. Phụ nữ thất tiết, chỉ vì
mê muội nhất thời, tới khi bị cha mẹ, anh, em chán ghét, bị bố mẹ chồng và chồng Thạch (石, đúng ra phải đọc là Đạn khi chỉ đơn vị đo lường, nhưng ta vẫn quen đọc là
Thạch), là đơn vị đo lường thời cổ. Một thạch bằng hai hộc, một hộc bằng năm đấu, tức
một thạch là 120 cân (khoảng 60kg).
ghét bỏ, bị xóm giềng, thân tộc chê cười, sẽ thường hối hận không kịp, ngậm oán
hờn, mất mạng! Hoặc do chung đụng bừa bãi mà đọa thai, mẹ lẫn con đều chết,
oan hồn trong chốn tối tăm há chịu bỏ qua [kẻ đầu sỏ gây ra nỗi oan nghiệt] ư?
Nghĩ như thế, ắt sẽ hoảng hốt, kinh sợ [nguội lạnh lòng dâm].
Nếu vẫn chưa được, hãy nghĩ: Nữ nhân dan díu sau lưng chồng, tức là hạng
phụ bạc, nhẫn tâm, quá mức tàn độc [đối với chồng], còn nói chi đối với người
ngoài ư? Hãy nên coi [kẻ nữ ấy] như sài lang, xem như rắn rết, coi như quỷ sứ câu
hồn, coi như oán gia đời trước. Như thế, ắt sẽ kinh sợ, kiêng dè!
Trông thấy con gái của người ta, hãy nghĩ: [Nếu dâm loạn cô ta], sẽ giống
như kẻ ác xâm phạm con gái của chính mình. Trông thấy vợ người ta, phải tưởng
như sợ kẻ khác dâm ô vợ mình. Ai nấy lúc vừa mới động niệm, hãy tự răn nhắc
sâu xa: “Ta dâm loạn vợ con người ta; nếu vợ con ta cũng bị kẻ khác dâm ô thì
biết làm sao?” Vừa đối diện [nữ nhân], bèn tưởng như vậy, cái tâm [tà dâm] ấy sẽ
tự nhiên diệt mất. Đấy chính là món thuốc dập tắt lửa [dục vọng] nhanh chóng
nhất! Hơn nữa, xâm phạm con gái người ta, có bao giờ con gái của chính mình
chẳng bị kẻ khác xâm phạm! Ô nhục vợ người ta, vợ mình có bao giờ chẳng bị kẻ
khác vấy bẩn? Chẳng cần phải tìm bằng chứng từ thời cổ, hãy xem khắp những
chuyện báo ứng trong thời gần đây, [sẽ thấy] đạo trời đúng là chẳng sai mảy may!
Thấy những kẻ dâm dật đã phải chịu báo ứng, ai nấy đều như thế, sẽ biết kẻ
dâm loạn mà chưa bị báo ứng, ai nấy rồi cũng sẽ như thế. Thơ cổ có câu: “Khuyến
quân mạc tá phong lưu trái, tá đắc khoái lai, hoàn đắc khoái. Gia trung tự hữu
đại hoàn nhân, nhĩ yếu lại thời, tha bất lại” (Nợ phong lưu khuyên chàng chớ
mượn, mượn đã nhanh rồi, trả chóng hơn. Người nhà sẽ phải nai lưng chịu. Anh
muốn khoan đền, họ chẳng dung), lời ấy chí lý thay! Gọi tỉnh chẳng ít những kẻ
đang say mộng!
* Ngô Trạch Vân nói:
- Con người sau khi được thừa hưởng khí chất [từ cha mẹ], đã thành hình,
điều quan trọng nhất, không gì bằng sanh mạng. Nhưng nếu chưa thể dưỡng
sanh , làm sao biết bảo toàn sanh mạng cho được? Đã biết bảo toàn tánh mạng,
sẽ có thể dưỡng sanh, đấy là nguyên lý chẳng thay đổi. Lòng người gần đây chẳng
bằng thời cổ, phong tục mỗi ngày một tệ hơn. Trong những cái gây tàn hại nặng
nề nhất đối với sanh mạng của con người, không gì to bằng sắc! Sắc ví như đao
bén, chạm đến sẽ bị tổn thương. Sắc ví như chất độc từ chim Trấm, uống vào ắt
tiêu đời! Tuy nam nữ kết hôn, chẳng trái nghịch nhân luân, nếu chẳng biết đến Ở đây, “dưỡng sanh” được dùng theo nghĩa rộng, hàm ý: Làm thế nào để vun bồi thân
thể cho nó tăng trưởng tốt đẹp.
nghĩa lý tiết chế tình ái, nỗi sầu mất mạng vẫn ẩn trong đó, nhưng người đời cứ
thấy là chuyện ngọt ngào, khoái lạc, cứ buông lung, chẳng biết tiết chế, là vì lẽ
nào? Ấy là vì trước đó, đã quên mất cái tâm đạo đức, ý niệm tà dâm bèn do nhân
duyên mà dấy. Đang độ tuổi thiếu niên khí huyết sôi nổi, đắm mến những thói
phóng đãng vô lại, thường tiêu mòn tinh thần hữu dụng trong tay đàn bà, con gái,
chẳng hề tiếc nuối! Thậm chí coi chuyện khoét vách, trèo tường là chuyện hay
ho. Ngủ lang nơi tiệm ả đào, cặp kè kỹ nữ, tự phụ là hạng phong lưu. Thậm chí,
đối trước vợ con nói bàn chuyện dâm dật, cợt nhả suồng sã trong chốn khuê phòng.
Vì lẽ này, gia phong bại hoại, kỷ cương, luân thường vùi lấp trong sắc dục, để
tiếng xấu khắp trong ngoài, nhưng kẻ ấy vẫn ngỡ là vui, chẳng nghĩ là khổ! Cho
tới khi chìm đắm đã sâu, tinh khô, tủy cạn, kẻ có chí khí do đó mà đọa lạc, tai mắt
bởi đó mà lòa điếc, hình hài do đó mà còm cõi, nhân cách bởi đó mà thấp hèn.
Hết thảy các bệnh hư nhược, bại xụi lại thừa dịp đó mà sanh, đến nỗi một thân sự
nghiệp vô cùng, hy vọng không chi to hơn, thảy đều tiêu tán, chẳng còn chi nữa!
Rốt cuộc, mất mạng đang độ tuổi trung niên, ghi tên trong sổ quỷ. Hoặc là chết
chẳng yên thân, hại đến con cháu, thảy đều là do lỗi lầm chẳng biết tiết chế sắc
dục! Đúng là đã coi sanh mạng như trò đùa vậy!
* Con người đối với tiền tài, dẫu là mối lợi nhỏ nhặt vẫn so đo, tính toán
trăm kế để tranh giành, đã cân nhắc thâu nhập để quyết định chi tiêu, vẫn sợ thiếu
hụt. Có kẻ nào ăn xài phung phí, chẳng biết chừng mực, [sẽ bị mọi người] chỉ
trích là đứa phá của. Ôi! Tiền bạc là thứ có được từ bên ngoài, vẫn trân trọng
dường ấy. Còn như tinh dịch đáng quý, chẳng được đặc biệt coi trọng như tiền tài.
Sự tàn hại của dâm dục chẳng hề nhỏ nhoi! Tiền của đã hết, ắt nghèo túng; tinh
đã hết, ắt chết tươi! Thế mà cứ mặc lòng phóng túng dâm dục, chẳng biết tiếc nuối
mảy may! Một mai tinh cạn, tủy khô, nước cạn, lửa hừng, thuốc thang vô hiệu!
Hối hận thì đã muộn mất rồi! Ông Tô Đông Pha nói: “Chuyện gây tổn thương
sanh mạng, chẳng phải chỉ có một, nhưng kẻ hiếu sắc ắt phải chết. Thân con
người dùng Thần để chế ngự Khí, Khí hóa thành Tinh. Tinh thần sung mãn, tròn
đầy, thân thể cường tráng, đủ sức làm chuyện lớn lao. Nếu dâm dục vô độ, ắt tinh
cạn, khí hao, Thần chẳng thể duy trì được, sẽ thành bệnh tật, chết sớm!” Hiểu
nguyên do này, há chẳng thận trọng ư?
* Thân thể, da, tóc, nhận lãnh từ cha mẹ, chẳng dám hủy hoại, tổn thương;
đó là khởi đầu của lòng hiếu vậy. Nói đến chuyện “hủy hoại, tổn thương”, há chỉ Nguyên văn “nhân tư, môn phong bại hoại, luân kỷ táng vong trung cấu, tân đài, di xú
nội ngoại”. Trung Cấu (中冓) là cái buồng kín trong nhà, Tân Đài là cái đài do Vệ Tuyên
Công xây cho nàng Tuyên Khương ở. Tuyên Khương vốn là công chúa nước Tề, đã đính
hôn với thái tử Cấp. Vệ Tuyên Công thấy con dâu tương lai đẹp quá, bèn chiếm làm của
riêng, xây Tân Đài cho ở. Như vậy, “trung cấu” và “tân đài” đều hàm nghĩa đam mê sắc
dục.
có nghĩa là gẫy tay, gẫy chân mà thôi? Giống như một cái cây quý mới mọc, trong
lúc nó đâm chồi nẩy nở, ắt phải kiêng đẵn chặt, sáng bón, tối chăm. Sau đấy, mới
hòng nó tỏa rợp bóng. Kẻ đương tuổi dậy thì, gân cốt vẫn chưa vững chắc, huyết
khí chưa định, mà đã chôn vùi chân nguyên trước, đến nỗi hình thể khô khao, còm
cõi, tinh hoa tiêu sạch, trăm thứ bệnh theo đó ồ ạt nẩy sanh. Đối trước cảnh ấy,
cha mẹ kinh hoảng, bối rối, bó tay, chẳng biết làm sao! Ở đây, tạm chẳng bàn đến
chuyện âm chất thiếu khuyết, hiềm rằng tuổi thọ suy giảm là do tự mình gây tạo
oan nghiệt, khiến cho song thân ngầm ôm nỗi đau vô bờ. Cổ nhân mỗi bước đều
chẳng dám quên cha mẹ, vì thân này là do cha mẹ lưu lại, há nên điếm nhục sự
thanh bạch ư? [Hễ điếm nhục thân thể, thanh danh], sẽ là bất hiếu không chi to
bằng!
* Kẻ thiếu niên khinh bạc, đến nhà thân hữu, tự tiện dòm ngó nữ quyến của
người ta, hoặc nghiêng tai nghe trộm. Trên đường đi, gặp người nữ xinh tươi, dừng
chân ngó sững, lẵng nhẵng theo đuôi, gạn hỏi tên họ. Thậm chí, lấy chính những
người mà chính mình đã được thấy nghe để mặc sức chòng ghẹo, bàn tán cùng
đồng bọn. Thử hỏi cái tâm ấy là cái tâm gì vậy? Ông Cừ Bá Ngọc chẳng lén lút
làm chuyện xấu, Tư Mã Ôn Công suốt cả đời chẳng có chuyện gì không thể nói
với người khác. Vậy mà [những gã thiếu niên khinh bạc ấy] ngay trong lúc ban
ngày, ban mặt, ở nơi mọi người dồn mắt trông vào, cứ ngạo nghễ bộc lộ thói xấu
chẳng ngại ngần! Khinh bạc như thế, còn chẳng coi những vị đoan chánh ra gì,
há chẳng khiến cho quỷ thần phẫn nộ ư? Nếu trong những kẻ quen biết, có hạng
người như vậy, hãy nên sớm tuyệt giao, chớ nên thân cận với chúng nó một ngày
nào!
* Tất Trung bảo:
- Thế giới hiện thời ngày càng tối tăm, ô trược! Thanh niên nam nữ ngày
càng lắm kẻ bại hoại danh tiết, chôn vùi thân thể. Suy xét nguyên cớ, đều bắt
nguồn từ dâm thư và tranh ảnh dâm đãng gieo rắc nọc độc. Trộm xét: Mấy thuở
gần đây, những thứ dâm thư, dâm họa diễm tình mới ra lò chẳng thể đếm xiết!
(Mỗi cuốn sách ra mắt, chẳng biết sẽ bán cho mấy trăm ngàn người! Những gã
tác giả thường nói cho êm tai là “xé màn tăm tối”, chẳng biết đó là phương cách
hướng dẫn, ươm ủ dâm đãng! [Chánh phủ] đã nhiều lượt nghiêm cấm dâm thư, có
những kẻ bề ngoài tuân lệnh, [nhưng vẫn] ngấm ngầm bán ra, hết sức đáng than
thở!) [Các thứ ấy] được xuất bản nhiều lượt, chẳng cùng tận, chỗ nào cũng thấy!
Thiếu niên nam nữ, thấy mục lục các sách ấy được đăng tải, quảng cáo trong báo
chí, đúng là muôn màu, muôn vẻ, mô tả hết sức tường tận, nẩy ý tò mò, mua về
xem, chẳng tránh khỏi chuyền tay cho bạn bè cùng xem, đến nỗi mắt say, tâm mê,
thần hồn điên đảo. Đứa nhát gan sẽ chẳng dám dễ dãi thử mùi, nhưng thân thể đã
vô hình bị hao tổn. Đứa bạo phổi chẳng thể tự kiềm chế, nếu lỡ sa chân, [hệ lụy]
nhỏ là thất nghiệp, thất học, hao tinh, tổn thần (ba thứ quý báu trong thân người
chính là Tinh, Khí, Thần. Nếu căn bản ấy bị mất đi, bệnh tật sẽ nẩy sanh, làm sao
sống lâu cho được). [Hệ lụy] to lớn là tan nhà, mất mạng, tuyệt dòng, đứt giống.
Cho đến lúc ấy, hối đã chẳng kịp!
Phong khí dâm tà, tối tăm ở Thượng Hải vượt xa nơi khác. Thử xem: Những
nơi cất chứa những thứ dơ bẩn, ô uế, dẫn dắt con người sa hầm sụp hố, chỗ nào
cũng có. Tai mắt bị tiêm nhiễm, kẻ thường ngày ý chí kiên định, tự trọng, vẫn
chẳng tránh khỏi bị bạn xấu lôi kéo mà sa ngã! Do vậy, tôi nói: “Sách dâm, tranh
dâm, đúng là lưỡi dao sắc bén giết người!” Chỉ nguyện các em, các cháu thanh
niên, những thiếu nữ khuê các, hễ gặp những dâm thư ấy, hãy xé bỏ, hủy diệt,
đừng đọc. Gặp những đứa bạn xấu, hãy nghỉ chơi, đừng gặp mặt. Vẫn mong hãy
răn nhắc lẫn nhau, đừng dấn thân vào nguy cơ sát nhân vô hình.
Tôi nay đối trước giới xuất bản, giới sáng tác, dập đầu chín lạy, thưa: “Ai
chẳng có con em? Ai chẳng có vợ con? Nỡ lòng để họ lọt vào chốn tối tăm, vây
hãm trong tử vong, tuyệt dòng đứt dõi ư?” Tôi lại dập đầu chín lạy trước các vị
hiệu trưởng, các vị gia trưởng, những vị kinh lý các nơi, thưa: “Mong các vị hãy
chú trọng mọi lúc đều nghiêm ngặt giám sát, nhiều lượt khuyên dụ, khiến cho các
em các cháu thanh niên thoát khỏi hắc ám, tránh khỏi tử vong”. Thế nhưng nguyên
tắc [trừ diệt dâm thư] vẫn thuộc về tay giới xuất bản, giới sáng tác hãy thực hiện
đạo đức cao thượng trong nghề nghiệp. Nếu chấp thuận ý kiến thiển cận của tôi,
hãy phá hủy các bản in [sách dâm, tranh dâm], thôi viết [truyện dâm tình]. Tôi
biết con em nam nữ của họ, ắt sẽ là những đại vĩ nhân, tài đức trọn đủ trong nước
cộng hòa.
Nếu như bảo “trong dâm thư ngầm nói đến quả báo ác, người xem sẽ có thể
tự cảnh giác”; thử hỏi có sách nào mà không ngầm nói đến quả báo? Vì lẽ gì chỉ
thấy kẻ đọc [dâm thư] trầm luân, chìm đắm? Tôi lại chắp tay, lạy lục những nhà
văn viết chuyện diễm tình, những nhà mỹ thuật vẽ tranh khiêu dâm: “Các vị tài
năng rạng rỡ, cầu gì chẳng được? Tội gì tự vấy bẩn mình, khiến cho danh tiếng
lừng lẫy bị ảnh hưởng, dẫn dắt xã hội vào chỗ hắc ám, hãm nhân dân trong tử
vong, đánh bạc với mối lợi nhỏ tí như đầu con ruồi?”
Tuy lề thói hiện thời ít nói đến các thuyết âm chất, nhân quả, nhưng đối với
ngũ kinh, tứ thư, các vị thông sáng xưa nay, ai nấy đều nêu tỏ, đề xướng. Há vì
thói đời hiện thời chẳng tin, bèn bác bỏ, cho là không có ư? Trong các ác nghiệp,
dâm ác nặng nề nhất. Khi còn sống, sẽ ngấm ngầm vướng lấy các thứ báo ứng
giảm phước, tổn thọ, diệt tử tuyệt tôn. Chết đi, linh hồn ắt vĩnh viễn hứng chịu
đau khổ! Các đồng bào của tôi lẽ nào mắt trông thấy mà tâm chẳng kinh hoảng
ư? Kính xin những bậc trưởng giả từ thiện đất Thượng Hải, nếu chẳng coi những
lời thô lậu này là sai lầm, sẽ họp lại bàn bạc, trù tính thỏa đáng cách khuyên dạy.
Không chỉ là tạo phước cho một phương, mà phong thái đức hạnh ấy sẽ khiến cho
mọi người khắp nơi đều noi theo, [như vậy thì] đồng bào trong thiên hạ đều được
hưởng ân trạch. Khôn ngăn thơm thảo, trăm lạy cầu khẩn!
* Hoàng Hiếu Trực nói:
- Sách Luận Ngữ chép: “Thiếu chi thời, huyết khí vị định, giới chi tại sắc.
Thánh nhân chi ư sắc, vô thời nhi bất giới dã” (Tuổi thiếu niên, huyết khí chưa
định, phải kiêng sắc dục. Đối với sắc, thánh nhân chẳng có lúc nào không răn
dạy). Lễ Ký chép: “Thứ nhân phi ngũ thập vô tử, bất thú thiếp, kỳ bất nhị sắc khả
tri. Nam tử tam thập nhi thú. Kỳ bất tạp sắc khả tri. Chư hầu bất thú cảnh nội. Kỳ
bất đoạt nhân chi thê khả tri. Tiên vương dĩ phân chí nhật bế quan. Kỳ thanh tâm
quả dục khả tri” (Thường dân nếu chẳng đến năm mươi tuổi mà chưa có con, sẽ
không cưới thiếp. Có thể biết là họ chẳng mê hai vợ. Đàn ông ba mươi tuổi bèn
cưới vợ, có thể biết [cổ nhân] chẳng tham sắc. Chư hầu chẳng lấy vợ trong lãnh
thổ của chính mình, có thể biết là họ chẳng đoạt vợ của người khác. Đế vương
thuở trước bế quan vào các ngày Xuân Phân, Hạ Chí, Thu Phân, Đông Chí, có thể
biết tâm họ trong sạch, ít ham muốn). Thế mà Khổng Tử đối với những chuyện
này, nhất loạt chẳng nhắc tới, đặc biệt nêu ra chuyện “tuổi thiếu niên huyết khí
chưa định” để răn dè sắc dục. Đúng là Ngài đã coi trọng chuyện này, và cũng hết
sức sợ [thiếu niên sẽ phạm sai lầm trong] chuyện này. Bởi lẽ, kẻ đang tuổi mới
lớn, giống như thảo mộc vừa bén chồi, trăm loài trùng còn đang ủ kén. Trong lúc
cỏ cây vừa mới nẩy lộc, liền vặt đứt mầm, chẳng có cây nào không khô héo. Trăm
loài trùng đang lúc ẩn trong kén, chợt xé toang ổ kén, không có con nào chẳng
chết!
Thánh nhân cảnh tỉnh thiếu niên, dạy chúng hãy tận lực khống chế cái tâm
sắc dục, biết kiêng sợ, tự xót thương chính mình, nhằm gìn giữ, vun bồi tấm thân
non nớt. Tuổi thiếu niên mà có thể đối với cái ải sắc dục này, giữ vững vàng, cắt
đứt lìa [mọi sự dụ dỗ, mê hoặc], mai sau [khi trưởng thành], nguyên thần chẳng
thiếu hụt, hạo khí tràn ngập trời đất, như mặt trời rạng rỡ giữa ban ngày, có thể
vận dụng tinh thần vào chuyện kinh bang tế thế, tạo nên sự nghiệp ngất trời. Nhân
phẩm chân thật, học vấn chân thật, đều do chuyện này mà ra. Dẫu chẳng thành
hạng có bản lãnh to lớn, ắt cũng nhất định hưởng hết tuổi trời, chẳng đến nỗi chết
ngang trái. Các thiếu niên hãy nên mạnh mẽ suy xét điều này!
* Cha mẹ yêu con hết sức thiết tha! Từ bé, không ai là chẳng kềm cặp nghiêm
ngặt. Chỉ có điều là đối với đại sự sắc dục gây nên tổn thương thân thể, phần nhiều
chẳng dạy dỗ sát sao, rành rẽ. Xét đến nguyên nhân, đó là vì khi [con cái] chưa
kết hôn, cứ nghĩ con em chưa hiểu biết, chẳng thể bảo rõ. Tới khi con đã lập gia
đình, lại cho rằng con đã trưởng thành, ngại ngùng trước mặt con dâu, chẳng thể
nói trọn lời! Chẳng biết con em tuổi trẻ, chưa có kinh nghiệm từng trải sâu sắc!
Đối với chuyện “xưa nay, những kẻ hiếu sắc ắt phải chết”, do chưa chính mắt
trông thấy, chẳng tin tưởng cho lắm. Chúng nó lại chẳng đọc kỹ lưỡng các sách
khuyên xa lìa, kiêng kỵ sắc dục, lại còn nghe những lời lẽ hoang đường của lũ bạn
tồi tệ, thường coi chuyện ăn nằm là lạc cảnh. Do vậy, đến nỗi tổn thương thân thể,
mạng vong! Do vì [lẽ này], kẻ không con nối dõi chẳng thể đếm xiết! Đúng là
đáng thở dài, tuôn trào nước mắt!
Kẻ làm cha mẹ, cần phải khi con em mười bốn tuổi, trước hết hãy ngấm
ngầm quan sát động tĩnh, hiểu rõ những điều chúng nó ưa chuộng. Nếu con trẻ đã
hiểu biết, khi con em thay quần áo, hãy ngầm xem xét, coi xem có dấu vết di tinh
hay không, để gấp rút viện dẫn lời cổ nhân huấn dụ, bảo ban rõ ràng, nói cặn kẽ
cho con biết lẽ “hiếu sắc, ắt phải chết [yểu]”. Dẫn chứng những kẻ do hiếu sắc đã
chết, để con em tự biết kinh sợ, sẽ có thể gìn giữ, vun bồi tinh thần. Nếu con đã
có gia đình, càng cần phải chẳng ngại phiền toái, khéo léo chỉ bảo. Cha bảo ban
con trai, mẹ khuyên lơn dâu. Hãy gấp dùng các sách dạy về xa lìa sắc dục, kiêng
dâm, để giảng giải cho con dâu, khiến cho nó khuyên nhắc chồng trong chốn riêng
tư. Muôn phần đừng vì lười nhác nhất thời, cảm thấy ngại ngần, để rồi đau hận
suốt đời!
* Tai họa do dâm to lớn nhất. Không chỉ riêng tà duyên (tà dâm), ngay như
trong chuyện vợ chồng chung đụng, hễ hơi quá lố, hoặc khi ngủ một mình mà tơ
tưởng chuyện sắc dục, đều đủ để mắc bệnh, mất mạng! Chẳng thể không răn dè!
Sách vở Đạo gia có nói: “Nhân sanh dục niệm bất hưng, tắc tinh khí thư bố ngũ
tạng, vinh vệ bách mạch. Cập dục niệm nhất khởi, dục hỏa xí nhiên, hấp toát ngũ
tạng, tinh tủy lưu dật, tùng Mạng Môn tuyên tiết nhi xuất. Tức thượng vị tiết xuất,
nhi dục tâm ký động, như dĩ liệt hỏa thiêu oa nội chi thủy, lập kiến tiêu kiệt. Vị
kỷ, tắc thủy càn nhi oa tạc hỹ” (Trong đời người, nếu chẳng dấy lên dục niệm,
tinh khí sẽ phân bố trọn khắp ngũ tạng, nuôi dưỡng, nhuần thấm trăm mạch thông
suốt. Tới khi dục niệm vừa dấy lên, lửa dục bốc cháy hừng hực, khiến cho ngũ
tạng co rút, tinh tủy tràn ra, từ Mạng Môn
 tuôn trào, chảy ra. Dẫu còn chưa tiết
ra, nhưng do dục tâm đã dấy động, ví như dùng lửa mạnh để đun nước trong nồi,
nước sẽ nhanh chóng khô cạn. Chẳng mấy chốc, nước cạn khô, nồi vỡ toang). Đấy
chính là căn cứ thật sự chứng tỏ dục niệm gây tổn thương thân thể. Tôi mong
 Mạng Môn (命門) là một bộ phận quan trọng trong thân thể theo Trung Y. Nó được coi
như là căn bản duy trì mạng sống. Vị trí xác định của bộ phận này có nhiều thuyết, nhưng
phổ biến nhất, Mạng Môn được coi là huyệt Mạng Môn thuộc mạch Đốc, có công năng chủ
trì các dịch thủy thuộc Thận Tạng trong cơ thể. Huyệt Mạng Môn là cửa ngõ để các dịch
thủy chuyển vào mạc Đốc. Nó nằm ngay trên phần thịt ở ngay xương sống nơi lưng, nằm
dưới da, thuộc phần giữa của đốt sống thứ hai và thứ ba tính từ xương cùng.
người đời có bệnh hãy tự chữa, chỉ cốt sao đoan chánh cái tâm, chú trọng lòng
kính đó thôi!
* Thiếu niên trong ngày tân hôn, dục niệm đang vượng. Nếu chẳng biết
chừng mực, sẽ thường là gieo họa căn chết chóc, rút ngắn tuổi thanh xuân của
chính mình. Chuyện này thật đáng đau đớn thay! Xưa kia có một nho sĩ, sau khi
kết hôn đi thi, cảm thấy ngủ một mình khổ quá, [thi xong] chưa có kết quả đã vội
quay về. Một ngày đi hơn trăm dặm, canh hai về đến nhà. Cha hắn giận dữ, mắng:
“Ắt là mày sanh sự ở trong thành, cho nên sợ tai họa mà trốn về nhà”, sai người
trói chặt, bỏ trong cái kho trống, lại quát tháo, [sai đầy tớ] kiếm gậy, bảo: “Ngày
mai tao sẽ quật cho mày một trận tuốt xác”. Sáng hôm sau, cha thong thả thức
dậy, [bảo người hầu] cởi trói, cũng chẳng hỏi đến nữa. Đứa con lúc mới về, hứng
thú thật nồng nàn, chợt bị cha quở mắng, làm nhục, trằn trọc cả đêm. Khi được
thả ra, trọn chẳng hiểu ý cha. Khi đó, có một người bạn, cùng về với anh ta, hôm
sau chết ngắc. Là vì đã đi trăm dặm, lại còn cùng vợ ân ái, bèn thoát tinh [mà
chết], mới biết lý do cha trói mình lại.
Cổ nhân bảo: “Sự thân giả, thuận ư vô hình, thính ư vô thanh” (Kẻ hiếu
thuận biết phụng dưỡng cha mẹ, sẽ khéo quan sát thấu hiểu tâm tình trước khi cha
mẹ chưa biểu lộ, chưa nói ra). Do vậy biết: Cha mẹ yêu thương con, thật sự là có
những lúc vượt ngoài biểu hiện, ngôn ngữ! Ôi! Trong vòng vợ chồng mà còn gặp
nguy cơ như thế, huống hồ kẻ dan díu, cưỡng bức bên ngoài! Do bị kinh sợ chen
lẫn, sẽ nguy hiểm gấp mười, gấp trăm lần. Kẻ làm con biết điều này, sẽ thấu hiểu
tấm lòng cha mẹ, ắt sẽ được sống lâu, mạnh khỏe!
* Hoàng Thư Vân nói:
- Tà dâm là phàm đối với vợ con của kẻ khác, ta do tà tâm xâm phạm thì là
tà dâm. Dẫu đối với vợ của chính mình mà phạm nhằm chẳng phải lúc (khi vợ có
kinh nguyệt, đang thai nghén, vừa mới sanh xong, đang cho con bú sữa, đang bị
bệnh, trong ngày trai giới), chẳng phải chỗ (chẳng phải là nơi chốn để giao hợp),
hoặc khi có mối quan hệ sanh tử đến thân mình hoặc vợ, hoặc nhằm ngày người
lẫn thần đều cấm kỵ, hoặc đối với thân thể chẳng giao hợp theo đúng lẽ, hoặc
[hành dâm] trong ngày đản sanh của thần thánh, đều là tà dâm. Đối với kỹ nữ, họ
do ác nghiệp đời trước đến nỗi phải đọa vào đó, hãy nên sanh lòng thương xót.
Lại ngược ngạo ưa chuộng kẻ hạ tiện ấy, mặc sức làm chuyện dâm uế. [Do vậy,
sẽ] tổn đức, chuốc lấy báo ứng, đúng là đáng kinh sợ! Nếu xâm phạm trẻ nhỏ,
gian dâm gái trinh, dâm loạn bà góa, ô nhục ni tăng; đấy chính là hành vi chẳng
bằng cầm thú, thần lẫn người đều căm ghét, luật trời chẳng dung, càng là tội ác to
lớn cùng cực! Hãy nên mạnh mẽ tỉnh ngộ, run sợ, thận trọng, kiêng lánh, tự giữ
thân, kiêng dè cẩn thận, đừng vi phạm.
Lại có kẻ giao phối với cầm thú, rối loạn luân thường. Loại hành vi chẳng
nỡ nhắc tới đó, rốt cuộc vẫn có trường hợp xảy ra! Than ôi! Lòng người bại hoại
đến mức cùng cực như thế đó! [Hạng người như vậy], há chỉ là đọa nhập cầm thú,
lại còn gây hại cho con cháu. Sách Cảm Ứng Thiên coi chuyện “thấy vẻ đẹp của
người khác, dấy lòng riêng tư” là có tội. Dấy lòng còn chẳng được, huống là thực
hiện ư? Hoặc tập thành thói quen ư?
Ôi! Cổ nhân có vị được người khác dâng gái mà chẳng nhận, thế mà ta tính
toán trăm kế để đoạt được. Cổ nhân có vị đêm thâu cự tuyệt kẻ dâm bôn, ta lại
cưỡng bức, ô nhục [kẻ khác]. Cổ nhân có vị bỏ tiền ra mua thiếp, [khi biết người
ấy đã là vợ kẻ khác] bèn trả lại cho chồng cô ta; thế mà ta tìm nhiều cách đoạt
lấy! Cổ nhân có người bỏ tiền để giúp cho tớ gái lấy chồng, mà ta thì cậy thế gian
dâm. Cổ nhân có người chuộc kẻ làm nghề hạ tiện cho họ hoàn lương, mà ta còn
thừa dịp họ gặp nguy khốn để hiếp đáp. Cổ nhân có người bỏ tiền cho vợ chồng
kẻ khác được đoàn tụ, mà ta lại ly gián để cướp đoạt. Cổ nhân có người bỏ tiền
giúp người khác cưới hỏi, ta lại âm hiểm phá hoại. Ngấm ngầm thì [nạn nhân]
nuốt nhục trong chốn khuê các. Lộ chuyện ra, cả nhà [người ấy] mang nhục. [Hậu
quả] nhỏ thì cũng suốt đời thù hận, lớn thì sẽ trở thành nỗi lo về tánh mạng! Còn
sống thì mắc oán với thần minh, cũng chẳng thể nhìn mặt chồng, cha mẹ, con cái
của nạn nhân. Chết đi, sẽ trầm luân trong ác đạo, liên tiếp đọa trong địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh. Ta đã gây tội, đúng là không thể nào trốn được, mà niềm oán hận
của kẻ ấy trọn không thể cởi gỡ, kéo dài đời đời kiếp kiếp, [tạo thành] nghiệp
duyên lâu dài, con cháu phải hứng chịu báo ứng thảm khốc! Khoái lạc vỏn vẹn
trong khoảnh khắc, tội chất chứa nhiều đời vô tận. Toàn là do lầm nhận hoa đốm
trong hư không, đắm chìm trong biển dục. Nợ phong lưu oan nghiệt, sao nỡ kết
thành? Cần phải hiểu thấu suốt, phải nín nhịn. Nếu chẳng nhịn được, tức là vẫn
chưa hiểu biết thấu suốt vậy!
Vì thế, thấy vợ con người ta, hãy tưởng như gia đình, quyến thuộc của chính
mình. Tưởng người cao tuổi như mẹ, coi người lớn tuổi như chị, thấy kẻ nhỏ tuổi
hơn như em, hoặc như con gái [của chính mình], ắt dâm tâm sẽ chẳng do đâu dấy
lên được! Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Bồ Tát ư tự thê thường tự tri túc” (Bồ Tát đối
với vợ của chính mình thường biết đủ). Đối với vợ của chính mình, còn chẳng nên
dâm dục quá độ, há còn dám dâm loạn vợ con kẻ khác ư? Sách Tốc Báo Lục
chép: “Ta chẳng dâm vợ người, người khác chẳng dâm vợ ta”. Sách Minh Luật
ghi: “Kẻ gian dâm con gái người ta, sẽ bị báo ứng tuyệt tự. Kẻ gian dâm vợ người
khác, sẽ bị quả báo con cháu dâm dật”. Đối với những vụ án tội lỗi xưa nay, hãy
xem trong các sách như Giới Dâm Bảo Huấn, Cảm Ứng Thiên, Âm Chất Văn, đã
ghi chú khá nhiều câu chuyện, chẳng đáng sợ ư?
Cần biết: Sắc tướng vốn là Không, vẻ kiều diễm như huyễn. Bình sơn phết
rực rỡ đựng phân, túi gấm giấu đao. Mỗi lúc rảnh rang trong phòng kín, đừng sanh
vọng tưởng. Dẫu cho các tà duyên tụ hợp, chớ táng tận lương tâm. Chỉ dùng huệ
lực để chiếu soi, giữ gìn chánh niệm. Hãy nghĩ tới lương tri nơi tự tâm, rạng ngời
ở nơi ta. Quỷ thần trong hư không, giám sát ta nghiêm ngặt. Trên đầu là Tam Đài
Bắc Đẩu, chiếu rực trước mặt ta. Táo Thần trong nhà, Tam Thi trong thân,
chằm chằm theo dõi ta. Phước lạc nơi thiên đường, chớp mắt bèn có thể đạt tới.
Nỗi khổ trong địa ngục, hễ sảy chân sẽ sa vào.
Hãy gò cương trước vách núi, quay đầu trong biển khổ. Trong lúc muôn phần
gian nan, mà tự giữ vững, giữ ý niệm “muôn phần chẳng thể phạm”. Đối với bài
văn dứt dục của Văn Xương Đế Quân, bài ca ngăn ngừa dâm của tổ sư Chung
Ly, hãy nên học thuộc, tận lực gìn giữ, đừng tạo nghiệp phải giấu diếm, đừng
làm chuyện bại hoại đạo đức, đừng coi đào hát là kẻ hèn hạ, mà càng phải thêm
thương xót. Đừng nghĩ tôi tớ là lũ thấp hèn rồi chẳng giữ trọn [đức hạnh của chính
mình]. Đừng tiếp nhận [chung đụng] kẻ tự đến muốn ta làm chuyện dâm bôn với
họ, để rồi phải sa thân vào lửa. Chớ coi thê thiếp như cơm ăn trong nhà, cứ phóng
túng tình dục đến nỗi sanh mạng bị thương tổn. Đừng quên danh phận kẻ lớn
người nhỏ, kẻo rối ren cương thường. Chớ ô uế tịnh hạnh của ni tăng, kẻo chọc
giận thần minh. Chớ lẫn lộn ranh giới giữa người và cầm thú, kẻo kết duyên đeo
lông. Đừng đối với gia đình của kẻ oán cừu mà tiết hận nơi vợ con của họ. Chớ Tam Đài (còn gọi là Tam Giai, Tam Xung, Tam Kỳ), tức là gọi tắt của Tam Đài Tinh Quân,
hoặc Tam Đài Hoa Cái Tinh Quân. Nói cụ thể, sẽ bao gồm Thượng Đài Hư Tinh Khai Đức
Tinh Quân, Trung Đài Lục Thuần Tư Không Tinh Quân và Hạ Đài Khúc Sanh Tư Lộc Tinh
Quân. Theo sách Vân Cấp Thất Thiên của Đạo Gia, Tam Đài chính là sáu ngôi sao nằm phía
Nam tòa sao Bắc Đẩu, chia thành ba cặp, giống như bậc tam cấp trước tòa Bắc Đẩu, nên có
tên gọi như thế. Theo tín ngưỡng Đạo giáo và Tử Vi, chòm sao này chủ trì quan lộc, tức
công danh, tài sản sự nghiệp của mỗi người. Theo Động Thần Quyết của Đạo giáo, trong thân có ba loại trùng là thượng trùng Bành
Cứ, trung trùng Bành Chất, và hạ trùng Bành Kiêu. Khi con người chết đi, các loài trùng
ký sinh trong thân đều chết, riêng ba loài trùng này sẽ thoát ra, sẽ biến thành thi quỷ. Ba
loại trùng này được tăng trưởng bởi thói xấu của con người, như Bành Cứ tương ứng với
thói tham ăn tục uống, Bành Chất tương ứng với thói tham lam tài sản, Bành Kiêu tương
ứng với tham dục, đắm sắc. Tổ sư Chung Ly chính là Chung Ly Quyền. Ông này vốn là một trong bát tiên, được tôn
là Chánh Dương Tổ Sư, hoặc Vân Phòng Tiên Sinh. Ông từng ra mười đề thi cho Lữ Động
Tân, độ Lữ Động Tân thành tiên. Do ông thường tự xưng là Thiên Hạ Đô Tản Hán Chung
Ly Quyền (天下都散漢鍾離權) với ý nghĩa tự trào phúng “Chung Ly Quyền là gã nhàn tản
nhất trong thiên hạ”, người đời sau vô ý, ngắt danh hiệu này thành hai, lại tưởng lầm chữ
Hán (được dùng với ý nghĩa “hán tử”) là triều đại Hán, nên mới có thuyết nói ông sống
vào đời Hán. Thậm chí, có kẻ nghĩ ông có họ là Hán, nên thường gọi ông là Hán Chung Ly.
Ông thường được miêu tả với hình ảnh một ông già râu dài, đầu hói, bụng phệ, mặc áo
phạch ngực, hở bụng, tay cầm quạt. Do Vương Trùng Dương (Vương Triết, sáng tổ Toàn
Chân Giáo) học đạo từ Lữ Động Tân, nên đạo sĩ Toàn Chân Giáo đã tôn Chung Ly Quyền
thành đệ nhất tổ, Lữ Động Tân là đệ nhị tổ.
xem những lời lẽ dâm đãng, những khúc nhạc hoặc văn chương đẫm mùi tình sắc,
để khỏi khơi động tà tâm. Chớ bàn sắc đẹp, tiếng dâm, kẻo mê hoặc ý niệm người
khác. Trừ kẻ tự phạm [lỗi tà dâm] ra, phàm những kẻ dẫn dụ con em nhà đàng
hoàng trở thành dâm đãng, và kẻ thích bàn chuyện trai gái, biên soạn dâm thư, vẽ
vời tranh ảnh dâm dật, khơi gợi những tình cảm thấp hèn của con người, nhằm
dạy người khác tà dâm. Người thấy kẻ nghe những thứ ấy, ắt sẽ muốn phạm vào
tà dâm. Kẻ hoan hỷ tán thành, sẽ giống như tự phạm!
Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Thập phương Như Lai, sắc mục hành dâm, đồng
danh dục hỏa. Bồ Tát kiến dục, như tỵ hỏa khanh. Nhược bất đoạn dâm, tu Thiền
Định giả, như chưng sa thạch, dục kỳ thành phạn, kinh bách thiên kiếp, chỉ danh
nhiệt sa” (Mười phương Như Lai nhìn vào các chuyện hành dâm, đều gọi là lửa
dục. Bồ Tát thấy dục, bèn như tránh né hầm lửa. Nếu kẻ tu Thiền Định mà chẳng
đoạn dâm, sẽ như nấu cát đá mà mong nó biến thành cơm, trải trăm ngàn kiếp,
chỉ gọi là “nung nóng cát”). Nếu luận định theo sự thật, ắt sẽ chẳng cần thật sự
làm chuyện [dâm tà] ấy, chỉ cần dấy lên một niệm, đã phạm tội đứng đầu trong
muôn điều ác! Ấy là vì chân tánh thường hằng được Thượng Đế ban cho, nguyên
mạng được nhận lãnh từ cha mẹ. Thấy sắc đẹp, dấy lên dâm tâm, ắt khách (những
ảnh hưởng bên ngoài) sẽ thay thế tánh thường hằng làm chủ. Chân tánh do Thượng
Đế ban tặng, ắt sẽ bị nhuốm bẩn một lần, đấy chính là đại bất trung (lòng trung
xuất phát từ cái tâm chẳng thiên lệch, chẳng lừa dối. Do dối mình, dối trời, cho
nên là bất trung). Những dụ hoặc bên ngoài lay động căn bản của nguyên mạng,
[khiến cho] cái được lãnh nhận từ cha mẹ sẽ bị hao tổn một lần. Đấy chính là đại
bất hiếu. Do vì tánh chẳng lìa mạng, mạng chẳng lìa tánh, mỗi lần dấy động dâm
dục, sẽ là một lần hao tổn lý khí, tức là một lần mất đi tánh mạng, tức là một lần
phạm phải tội ác đứng đầu!
Ôi! Kẻ hồng nhan như bạch khuê chưa nhuốm bẩn, mà sổ đen ghi tên gã
thanh niên [phạm lỗi] đã tăng thêm! Do đó, bậc quân tử trước hết dùng chuyện
chánh tâm để gạn trong cái nguồn; kế đó, dùng “ít ham muốn” để dưỡng đức ấy.
Há dám mặc tình buông lung dục vọng, trái trời, khinh miệt lý, để rồi đến nỗi hao
phước, giảm lộc, đoản thọ, để lại họa ương ư? Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tà dâm
chi tội, diệc linh chúng sanh đọa tam ác đạo. Nhược sanh nhân trung, đắc nhị
chủng quả báo. Nhất giả, thê bất trinh lương. Nhị giả, đắc bất tùy ý quyến Nguyên văn “cái hằng tánh giáng tự Duy Hoàng”, Duy Hoàng (維皇) là danh xưng xuất
phát từ sách Thượng Thư để gọi Thượng Đế, với ý nghĩa: Thượng Đế là vị vua duy nhất
tối thượng của muôn vật. “Hằng tánh” (恒性) là tánh không thay đổi, tức chân tánh. Câu
cách ngôn này được viết theo quan điểm Đạo Giáo, nên coi chân tánh của mỗi cá nhân đều
bắt nguồn từ Thượng Đế. Bạch Khuê: Một loại ngọc đẹp trong trắng, sạch bóng.
thuộc” (Do tội tà dâm, cũng khiến cho chúng sanh đọa vào ba đường ác. Nếu sanh
trong loài người, sẽ bị hai thứ quả báo. Một là vợ chẳng trinh lương, hai là chẳng
được quyến thuộc như ý). [Châu Hy chú giải] sách Luận Ngữ đã viết: “Thế thượng
vô như nhân dục hiểm, kỷ nhân năng bất ngộ bình sanh” (Trên cõi đời chẳng có
gì nguy hiểm bằng dục vọng của con người, có mấy ai có thể chẳng vì chuyện đó
mà lầm lỡ cả một đời), đáng buồn thay!
Mười hai điều tai hại của tà dâm
Mạo Khởi Tông chú giải hai câu “kiến tha mỹ sắc, khởi tâm tư chi” trong
Cảm Ứng Thiên như sau: “Thấy vẻ mỹ mạo của vợ con người khác, dấy lên cái
tâm riêng tư gian tà”. Ý niệm ấy dấy lên, tuy chưa phải là thật sự [thực hiện], đã
khó trốn khỏi quỷ thần giáng họa, trừng phạt. Bởi lẽ, dâm đứng đầu muôn điều
ác, kẻ ngu chẳng biết lợi hại, tạo tội nghiệt này. Nay thử giảng các lẽ họa hại,
hòng cảnh tỉnh kẻ lạc đường.
1) Hại thiên luân. Nam nữ ai nấy có người phối ngẫu. Đó là luân thường
trời định. Dâm loạn cùng kẻ khác, chẳng đếm xỉa chuyện tình nghĩa vợ chồng của
họ bị sứt mẻ. Ta gây rối [thiên luân của họ], tức là chẳng khác gì cầm thú “đeo
lông, mang đuôi” lại đội mũ, khoác áo; há nên làm chuyện này ư?
2) Xâm hại danh tiết của người khác. Chuyện to lớn trong đời phụ nữ, chỉ
đặt nặng tại chữ “tiết hạnh”. Loạn danh tiết của họ, khiến họ bị thất tiết, ngói vỡ
há có thể lại lành ư?
3) Tổn hại thanh danh. Dẫu ngươi kín đáo cách mấy, [cuối cùng cũng bị
tiết lộ], chẳng có ai không biết, tiếng xấu lan xa, khiến cho mọi người đàm tiếu,
khiến cho thân thích của người ấy cũng mất sạch thể diện.
4) Tổn hại môn phong. Sỉ nhục cha mẹ ruột, cha mẹ chồng của người ấy,
khiến cho chồng, và anh em trai, chị em gái, con, dâu, cháu của người ấy tủi nhục.
Cả một nhà đeo nhục, đau đớn thấu tận tâm cốt. Đúng là giết hại cả ba đời nhà
người ta!
5) Làm hại tánh mạng. Hoặc là phụ nữ [do bị dâm loạn], hứng chịu tiếng
xấu, đến nỗi [do nghĩ quẩn mà ngã bệnh, hoặc tự vẫn] mất mạng, hoặc chồng
người ấy phẫn hận chết tốt, hoặc chồng giết vợ, hoặc cha giết con gái, hoặc vợ
giết chồng, hoặc chồng giết chết gian phu, hoặc gian phu bị mọi người đánh chết,
hoặc tỳ nữ bị người vợ ghen tuông hại chết.
6) Làm hại phong tục. Trong xóm làng có kẻ táng tận liêm sỉ, mặt người dạ
thú ấy, kẻ ngu trông thấy gương đó, kết bè kéo đảng làm chuyện gian dâm, tổn
thương, bại hoại phong tục bậc nhất. Do thói xấu ác ấy, nhất định sẽ gặp kiếp
nạn.
Sáu mối hại ấy tổn hại mọi người.
7) Tổn hại tâm thuật. Hễ dâm niệm nẩy sanh, các thứ ác niệm đều sanh,
như những tâm huyễn vọng, tâm tham luyến, tâm mưu mẹo, tâm ganh ghét, lôi
kéo, trói buộc chẳng ngừng. Ý ác nặng nề nhất.
8) Hại âm chất. Chất (騭) có nghĩa là “nhất định”. Cõi trời ngấm ngầm có
đạo lý an định con người, chính là “tánh vốn lành”, là thai nguyên (胎元: nhân
duyên khởi điểm của cái thai) để làm người. Nay rối loạn đạo luân thường, bại
hoại đức, chôn vùi hạnh, tổn thương thiên lý, hủy diệt lương tâm, chặt bớt lý âm
chất, sẽ phải đọa trong ác đạo như địa ngục, súc sanh
9) Hại danh lợi. Sách Cảm Ứng Thiên nói: Tam Đài, Bắc Đẩu, Tam Thi,
Táo Thần luôn theo sát ta để xét lỗi, há có lẽ nào đêm thâu vắng người, trời cao
chẳng biết ư! Xem khắp các quả báo, [ắt thấy] như Lý Đăng phạm lỗi, [tài lộc bị]
tước mất Trạng Nguyên, Tể Tướng. Người lái buôn gỗ X… ở Nghi Hưng do phạm
lỗi, bị cọp đen nhai nát đầu. Trong mạng lẽ ra được phú quý, [do phạm tà dâm],
cũng bị tước sạch! Huống hồ kẻ phước đức nông cạn, sẽ chật vật khôn kham!
10) Hại thọ mạng. Bị quỷ thần tước đoạt tuổi thọ con người, [trong các
nguyên nhân], dâm ác là nặng nhất. Huống hồ lửa dục thiêu đốt, tinh thần suy
kiệt, xương tủy khô cạn. Lại còn hoặc là [do trong lúc bị cưỡng bức], vì kinh
hoàng mà chết, hoặc [kẻ dâm loàn] bị lao, bị xụi, chết vì bệnh hoa liễu. Kẻ hiếu
sắc ắt phải chết, đoản thọ, chết yểu!
11) Hại tổ phụ. Huyết mạch do cha ông truyền lại, bị phung phí trong ấy.
Đó là ngỗ nghịch, bất hiếu nhất, phước phận cả một đời còn bị tước sạch. Từ đấy
trở đi, danh tiếng của gia đình bị hoại, chẳng còn có người cúng quải [tổ tông].
Tổ tiên trong cõi âm sẽ thành quỷ đói, há chẳng ôm hận cực độ ư?
12) Hại vợ con. Kinh Phật dạy: “Vô hữu tử tức, loạn nhân thê cố. Thê nữ
dâm loạn, loạn nhân thất nữ cố” (Chẳng có con cái là vì dâm loạn vợ người khác.
Vợ con dâm loạn là do [chính mình] đã dâm loạn con gái chưa chồng của người
ta). [Ta dâm loạn], sẽ khiến vợ con phải trả nợ, lại còn đoạn tuyệt dòng dõi.
Chuyện này không chỉ thấy từ các quả báo được chép trong sách vở, mà hãy thử
xem xét những kẻ dâm đãng trong đời trước, bèn biết đời trước, đời này, bất cứ
đứa dâm đãng nào cũng đều là như vậy.
Sáu nỗi hại ấy tổn hại chính mình. Mười hai nỗi họa hại trên đây đều do xét
theo cách ngôn, nhân quả mà rút ra, cũng như xét theo những chuyện tận mắt thấy
trong hiện thời. Mong những ai có cùng chí hướng với tôi, hãy nhận biết rõ ràng
họa hoạn từ trước, ngõ hầu đến lúc gặp chuyện, sẽ chẳng mê muội. Bậc hiền nhân
thuở trước đã nói: “Phải nhẫn cái ải này, phải kiên nhẫn, phải thật sự nhẫn”. Lại
nói: “Hãy thường nghĩ tới lúc bệnh, lúc chết, tà niệm bèn tiêu”. Lại nói: “Sáng
tối thắp một nén hương, tĩnh tọa nửa tiếng đồng hồ, khiến cho tâm vượn, ý ngựa
dần dần điều phục”. Hành theo ba lời dạy ấy, lại còn hằng ngày xem mười hai
điều họa hại này, luôn luôn suy ngẫm. Đấy chính là cách tốt lành để ngăn ngừa tà
dâm.
Lại như Đường Cao, La Luân, Tạ Thiên, Vương Hoa đỗ đạt, chỉ vì tận lực
cự tuyệt kẻ nữ dâm bôn. Triệu Bỉnh Trung, Châu Toàn, Phùng Kinh quý hiển, chỉ
vì cha họ chẳng phạm tà dâm. Há họa phước chẳng có mối liên quan tột bậc to
lớn chuyện “trong khoảnh khắc, [có thể giữ vững ý chí, chẳng phạm tà dâm]” hay
sao? Chữ “kẻ khác” bao gồm cả con sen, chị ở. Xưa kia, Văn Xương Đế Quân đã
trịnh trọng, giáng bút bài Âm Chất Văn, dạy: “Hương duy tư tỳ, tú tháp khế nô,
câu ưng tất tru chi luật” (Kẻ trong chốn màn thơm, tư thông với tớ gái, trên giường
thêu, nhấm nháp người hầu, ắt sẽ đều bị luật trời trừng phạt). Ai nấy đều cùng một
Thể, đều chớ nên xâm phạm. Cần phải biết: Thiện nhân suốt đời chẳng lầm lạc vì
sắc, xem người già như mẹ, xem người lớn hơn như chị, xem kẻ trẻ hơn như em,
xem kẻ nhỏ tuổi như con gái [của chính mình]. Dẫu họ tự đến [quyến rũ] ta, luôn
luôn phải tận lực cự tuyệt, giữ vững mười pháp lìa tà:
1) Một là tâm địa thanh tịnh.
2) Hai là giữ quy củ.
3) Ba là kính thiên thần.
4) Bốn là dưỡng tinh thần.
5) Năm là mắt chớ nhìn.
6) Sáu là chớ nói chuyện xấu xa.
7) Bảy là đốt dâm thư.
8) Tám là giảm bớt chuyện phòng the.
9) Chín là đừng dậy trễ.
10) Mười là khuyên răn kẻ khác cùng kiêng giữ.
Người xưa đã từng khắc in những tờ truyền đơn khuyên kiêng tránh tà dâm,
trong ấy có nói: Mỗi người nhận một tờ, hãy khuyên bảo mười người. Mỗi khi
khuyên được một, hãy ghi danh ký tên, dâng sớ tâu trước thần minh, cùng thề
kiêng răn dâm. Cách ấy là tốt nhất, mẫu truyền đơn cũng dễ làm.
Tứ giác quán
(khi phép Quán này thành tựu, sẽ nhận biết sâu xa, ta và kẻ khác đều là thể
chất thô lậu. Do vậy, đây chính là môn phương tiện để trừ tham niệm khi đối trước
cảnh giới)
Phàm phu do ý niệm dâm dục, đời đời thường chuyển dời. Đời trước khi làm
thân nữ, thấy nam nhân bèn vui thích. Đời này được làm nam giới, lại yêu thân
thể người nữ. Luôn cảm thấy thân ấy ô uế, ái sẽ do đâu mà dấy?
1) Hãy sanh khởi sự giác quán thứ nhất khi ngủ dậy: Thầm nghĩ sáng sớm
thức dậy, hai mắt lờ đờ, chưa được rửa ráy, súc miệng, khi ấy, miệng đầy ke bựa,
lưỡi đóng bợn vàng, hết sức ô uế! Hãy nghĩ dáng vẻ kiều diễm tuyệt thế, dẫu là
miệng anh đào xinh xắn, trước khi thoa son, giồi phấn, dáng vẻ cũng chỉ như vậy
mà thôi!
2) Hãy khởi sự giác quán thứ hai [bản thân ta] sau khi say sưa: Thầm nghĩ,
khi uống rượu quá lố, nội tạng nôn nao. Chẳng mấy chốc, ói mửa ồng ộc, phun
sạch những vật chưa tiêu trong bụng. Chó đói ngửi thấy, vẫy đuôi giật lùi. Hãy
nghĩ giai nhân nhấm nháp từng chén rượu, ngọc nữ nhỏ nhẹ dùng cơm, nhưng khi
chén, khay chất đống, những thứ trong bụng cũng chỉ như vậy mà thôi!
3) Hãy nên khởi sự giác quán thứ ba lúc bệnh. Thầm nghĩ sau khi ngọa bệnh,
mặt mũi xám xịt, thân hình còm cõi. [Bệnh tật] lại còn tạo thành ghẻ, bướu, nát
rữa, mủ máu lẫn lộn, hôi thối chẳng thể tới gần. Hãy nên nghĩ bậc quốc sắc thiên
hương, trẻ tuổi, tươi non, nhưng bị bệnh tật quẩn thân lâu ngày, hình dạng cũng
sẽ như vậy mà thôi!
4) Hãy khởi lên sự giác quán thứ tư khi trông thấy nhà vệ sinh. Thầm tưởng
nhà xí công cộng bên đường, phân tiểu chất chứa. Những thứ trắng vàng xen lẫn,
ruồi nhặng rập rờn khắp nơi. Hãy nghĩ tư thái thiên kiều bá mị, mặc cho kẻ ấy tắm
gội bằng nước thơm, thân xông hương xạ, nhưng sau khi đồ ăn thức uống bị tiêu
hóa, cũng biến thành như vậy đó thôi!
Cửu tưởng quán
(Khi phép Quán này thành tựu, mới biết sau khi đã chết, vô lượng thê thảm.
Đây chính là môn phương tiện để đoạn tuyệt ái dục tận gốc)
[Nếu] ai nấy nghĩ đến khi chết, lửa dục sẽ nhanh chóng nguội lạnh. Nếu kẻ
ngu nghe nói đến chuyện này, sẽ chau mày, than thở xui xẻo! Rốt cuộc, sau khi
trăm tuổi, đều cùng vào lò hỏa thiêu. Chín phép quán tưởng của hàng Bồ Tát
chính là bến cầu to tát trong biển khổ.
1) Thứ nhất, quán người mới chết. Lắng lòng quán người mới chết, nằm ngửa,
ngay đuồn đuỗn, khí lạnh thấu xương, chẳng biết gì hết. Hãy nghĩ cái thân tham
tài mê sắc của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.
2) Thứ hai, quán xanh bầm. Lắng lòng quán tưởng thi hài còn chưa tẩm liệm.
Từ một ngày cho tới bảy ngày, khí đen dâng tràn, chuyển thành tím ngắt, rất đáng
kinh sợ. Hãy nghĩ vẻ đẹp như hoa của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.
3) Thứ ba, quán máu mủ. Lắng lòng quán người chết bắt đầu rạn nứt. Thịt
rữa nát thành mủ, sắp tuôn trào ra, gan ruột tan nát. Hãy nghĩ cái thân tuấn tú,
phong nhã của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.
4) Thứ tư, quán [xác chết] chảy nước. Lắng lòng quán tưởng cái thây rữa nát.
Để lâu ngày, nước vàng túa ra, thối không thể ngửi được! Hãy nghĩ da dẻ thơm
sạch nơi thân ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.
5) Thứ năm, quán trùng ăn xác. Lắng lòng quán tưởng cái xác mục nát lâu
ngày, khắp thân sanh trùng, đục khoét khắp chỗ. Những nơi xương đốt, đều như
tổ ong. Hãy nghĩ cái thân của ta, ví như loan phượng, trong tương lai, ắt cũng như
thế.
6) Thứ sáu, quán gân chằng xương. Lắng lòng quán tưởng thây nát, da thịt
mòn sạch, chỉ còn gân chằng xương, như dây buộc củi cho khỏi tản lạc. Hãy nghĩ
cái thân trộm ngọc cắp hương của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.
7) Thứ bảy, quán xương rời rã. Lắng lòng quán xác chết, gân đã nát rữa, các
lóng xương vung vãi, chẳng tụ lại một chỗ. Hãy nghĩ cái thân cao vời, sang quý
của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.
8) Thứ tám, quán [thi hài] bị đốt rụi. Lắng lòng quán xác chết, bị lửa đốt
cháy, co rúm trên mặt đất, chỗ sống, chỗ chín, mắt chẳng nỡ nhìn. Hãy nghĩ cái
thân văn chương trùm lấp cõi đời của ta, trong tương lai, ắt cũng như thế.
9) Thứ chín, quán xương khô. Lắng lòng quán tưởng mồ mả bị phá, xương
xẩu quăng bỏ vương vãi, giãi nắng, dầm mưa, chuyển thành màu trắng, hoặc mục
nhũn, vàng úa, người, thú giày xéo. Hãy nghĩ cái thân ta tuổi trẻ chóng qua, trong
tương lai, ắt cũng như thế.
Mười điều khuyên răn
1) Há nên điếm nhục kẻ xử nữ chốn khuê các, [vì chuyện ấy] liên lụy danh
tiết cả đời người ta. Họ hàng mất mặt, chẳng thể che đậy. Kết chắc mối oán thù
chẳng thể tiêu tan. Dẫu khi lấy chồng, có thể giấu diếm, [nhưng chính cô gái ấy]
ẩn giấu nỗi sỉ nhục khó yên. Oán thù đau đớn ghi tâm khắc cốt, chất chứa như núi,
gánh chịu nỗi nhơ ngàn năm khôn rửa! [Đấy là điều răn về] gái trinh.
2) Có ai chẳng mong sống hạnh phúc đến già, đáng thương thay kẻ phòng
không bóng chiếc. Ao thơm, đôi uyên ương tan tác. Từ đấy trở đi, chẳng còn mong
chắp cánh cùng bay. Người chết chẳng còn mong mỏi chi khác, chỉ mong [người
phối ngẫu] sẽ làm ta rạng danh. Nếu cậy thế, chèn ép quá mức cuồng dại, rốt cuộc
tạo thành oan gia nghiệp chướng. [Đấy là điều răn về] góa phụ.
3) Nữ nhân ai nấy đều mong được yên bề gia thất, giữ trinh tiết đợi được đính
hôn, vu quy. [Tớ gái] chỉ vì bị nghèo túng và khốn khó cùng vây bủa [phải làm
thân tôi mọi cho kẻ khác, chủ nhân hãy nên đối xử bằng] thân tình cốt nhục như
nước, đừng ngỡ họ như cỏ trước thềm. Đừng tham thú vui giường chiếu [mà ép
uổng, cưỡng bức họ], khiến cho trăm năm khó giữ vẹn thanh danh vốn có của gia
tộc. [Làm chuyện oan trái như thế], chỉ sợ con cháu chẳng ra gì! [Đấy là điều răn
về] tỳ nữ.
4) Tuy chị ở kém hèn, vẫn biết hổ thẹn chẳng khác mọi người. Do bị cưỡng
ép, không biết làm sao, phải ép mình chiều theo [ham muốn dâm tà của chủ]. Tội
ác [cưỡng bức] ấy sâu nặng hơn bình thường! Bọn họ đã có người phối ngẫu rành
rành, ta hãy nên giữ nghiêm gia phong. Trước nay, đầy tớ trung nghĩa, lập công
huân lạ thường, đều là do cảm động vì ân nghĩa của chủ nhân. [Đấy là điều răn
về] chị ở.
5) Vú em đã chăm sóc con ta, ta sao nỡ chẳng vì con, lại gian dâm họ? Họ
đã suốt năm chẳng được hưởng tình chồng vợ êm đềm, chỉ vì gia cảnh nghèo túng
khó thể chịu đựng được, [đành phải rời nhà làm vú em]. Huống hồ, chồng họ còn
ở lại nhà, rất mong họ thủ tiết. [Khi bị cưỡng dâm], họ xấu hổ, tự hận mình, đau
lòng đến mức nào? Khuyên ngươi hãy sớm thấy thấu suốt! [Đấy là điều răn về]
vú em.
6) Kẻ nghèo túng, khốn quẫn, cam lòng nhịn nhục, hoàn toàn mong người
có lòng nhân gìn giữ trọn vẹn cho họ. Kẻ cậy tiền tài, thừa dịp họ gặp cảnh ngặt
nghèo, mặc tình gian dâm, tạo nên nỗi oan nghiệt suốt đời chẳng nông cạn!
Nguyên nhân dẫn đến giàu nghèo bất định, tài sản tụ tán như khói. Ai có thể dùng
tiền mua được con cháu hiền từ? Chỉ sợ đời sau khó tránh [cháu con bại hoại].
[Đấy là điều răn về] những phụ nữ nghèo.
7) Họ đã tu hành xuất thế, há nên tìm kiếm thú vui xác thịt? Bại hoại giới
hạnh và thanh danh của họ, chẳng đoái hoài sự thanh tịnh nơi nhà Phật, mắt thần
minh thấy rõ ràng như chớp lòe. [Đối với những kẻ] thừa dịp sơ sót để dâm loạn,
phép vua xử tội, sự trừng phạt trong chốn u minh chẳng nhẹ đâu nhé! Đúng là
thân đọa vào trong bẫy rập! [Đấy là điều răn về] ni cô.
8) Có hạng kỹ nữ chốn lầu xanh, dựa cửa, trăm vẻ tà mị quyến rũ. Cần biết
rằng: Bậc quân tử yêu thân, yêu gia đình, luôn dè dặt như đang cầm ngọc, luôn sợ
hãi. Bọn họ vốn là hoa rơi vô chủ, ta rốt cuộc là ngọc trắng bị tỳ vết. [Dan díu với
gái làng chơi], sẽ phá tán của cải, lầm lỡ chuyện sanh nhai, nhiễm phải những
bệnh độc địa, chịu họa to tát. [Đấy là điều răn về] kỹ nữ.
9) Cưới thiếp chỉ vì mong có người nối dõi. Cần gì phải có cả bầy gái tơ?
Phấn trắng, son hồng bôi đắp trên đầu lâu! Nói chung, một giấc mộng xuân.
Thường thấy phú ông lắm kẻ sủng ái [hầu non], lạnh nhạt đối với vợ cả. Thường
xuyên cầu lạc, theo đuổi chuyện dâm tà, sẽ có ảnh hưởng đến tánh mạng rất nặng!
[Đấy là điều răn về] hầu thiếp.
10) Nam nữ chung sống là điều chánh đáng, há nên điên đảo âm dương? Ô
uế sự trong sạch của người khác, khiến cho kẻ khác ngấm ngầm sỉ nhục. Chính
mình chôn sạch thanh danh, lãng phí tiền tài, giảm thọ. Lại còn tự gây tổn hại cho
tánh mạng. Xin các vị hãy quay đầu nhìn lại những kẻ ấy, [sẽ thấy] quả báo vằng
vặc chẳng sai! [Đấy là điều răn về] nam sắc.
Giới chi tại sắc phú (bài phú khuyên răn kiêng giữ sắc dục)
(dùng chữ trong tựa đề để gieo vần)
Tình thiên lồng lộng, dục giới mịt mờ. Trí huệ đã mê, si ngốc khó chuộc,
cũng đều nghĩ tới vợ vợ, chồng chồng. Nghiêm giữ nếp nhà chẳng rối, ngõ hầu
cháu cháu, con con. Giữ nghiêm ngặt khuê môn chẳng hư bại, lẽ đâu có kẻ khoét
vách? Trọn chẳng có mối mai ong bướm rập rờn, sao đến nỗi có gã vượt tường,
đền chẳng hết món nợ uyên ương? Muôn điều ác, dâm xếp hàng đầu, chốn Diêm
Phủ ắt có thêm người! Trăm mối họa ương, đều giáng xuống thân, không chỉ chết
non, bại xụi! Xóa tên sổ quế, sống thì buồn suông nơi ngõ hẻm bần cùng, chặt
hết nhánh cành; chết đi, mộ hoang lấy ai cúng bái? Người người nhớ kỹ Trung
Dung, quên khuấy một kinh tránh xa sắc dục trong chín kinh. Ai nấy đọc Luận
Ngữ làu làu, không nhớ điều kiêng sắc từ thuở thiếu niên trong ba điều răn dạy.
Huyết khí phần nhiều chưa định, kẻ trí, người ngu, ai giữ vẹn [giới sắc] chẳng dời,
đó chính là hòa. Tinh có thể bồi bổ gân cốt, kẻ tham dâm quá đáng, thể lực khôn
bề chống đỡ! Cậy thế bức hiếp bà góa, phá hoại danh tiết khiến người chồng đã
mất khóc thầm! Ôm ấp gái trinh, cô dâu mới ôm nhục nghi nan. Nghĩ mụ ở dễ Sổ quế (桂籍: quế tịch): Vào thời Tấn Vũ Đế, thượng thư bộ Lại là Thôi Hồng đã tiến cử
Khích Sân làm tả thừa tướng. Tấn Vũ Đế hỏi Khích Sân nghĩ như thế nào, Khích Sân tâu:
“Thần như bẻ cành quế trong cung trăng, như được một viên ngọc từ núi Côn Luân”. Do
vậy, sau này có những thành ngữ “nhất chi đan quế” (một cành quế đỏ), “đan quế”, “phan
quế” (vin cành quế), “Quảng Hàn chiết quế” (bẻ quế từ cung trăng) v.v… để chỉ sự thăng
tiến trong quan trường. Dần dần, mở rộng thành “Quảng Hàn chiết quế” (bẻ quế từ cung
trăng) với ý nghĩa đỗ đạt. Từ đó, có mỹ từ “quế tịch” để chỉ danh sách những người thi cử
đỗ đạt trong khoa cử khi trước. “Xóa tên sổ quế” có nghĩa là công danh bị giảm trừ hoặc
mất sạch, chẳng đỗ đạt. Con cháu ít ỏi, hiếm hoi! Chín kinh (cửu kinh) ở đây chính là chín điều trọng yếu để thực hiện đạo Trung Dung
của Nho gia: 1) Tu dưỡng tự thân. 2) Kính trọng người hiền. 3) Yêu thương che chở thân
tộc. 4) Kính trọng bậc đại thần. 5) Chăm sóc các quan, đồng sự. 6) Thương yêu dân chúng.
7) Tận lực khuyến khích các nghề nghiệp phát triển. 8) Ưu đãi khách thương từ xa tới. 9)
Đối xử hòa thuận hòng giữ yên chư hầu. Xa lánh sắc dục là một hạng mục trong “kinh thứ
nhất” (tu dưỡng tự thân). Nguyên văn “huyết khí đa duyên vị định, trí ngu na đắc bất di, hòa giả dã. Tài tiên khả
nhị, cưỡng hồ tai, lực mạc năng chi”. Theo cách diễn giải của ông Minh Tịch trong bộ Thọ
Khang Bảo Giám Hiện Đại Toàn Dịch, đoạn này phải hiểu như thế này: Kẻ thiếu niên huyết
khí chưa định, thân tâm đa dục, bị sắc ma dẫn dụ, dẫu kẻ trí hay người ngu đều khó thoát
khỏi ma chưởng, huyết và khí hòa hợp mới sinh ra tinh, đó gọi là “hòa giả dã”. Đã có Tinh
thì mới có thể bồi dưỡng cái thân máu huyết, tráng kiện gân cốt cho nên nói là “tài khả
tiên nhị”. “Tài” chính là nói đến Tinh. “Nhị” (餌) có nghĩa là gân cốt được tinh bồi đắp mà
tráng kiện. Thiếu niên đắm đuối dâm dục nên gọi là “cưỡng”. “Cưỡng hồ tai” tức là thiếu
niên do thường hành dâm dục đến nỗi thân thể thân thể bị hao tổn, mà vẫn không biết từ
bỏ. Do Tinh bị thiếu hụt, nên thân thể suy yếu, sanh nhiều bệnh tật. Vì thế, “lực mạng
năng chi” (sức không chống đỡ được). Do bị hạn cuộc theo cách viết trong nguyên văn, những câu này hơi khó hiểu, chúng tôi
mạn phép vẽ rắn thêm chân như sau: Kẻ phóng đãng chòng ghẹo gái chưa chồng, hoặc làm
giở trò gian dâm, cha con cùng chung chạ! Thấy chị vú dễ bề xâm phạm, độc hại
há thể chữa lành? Tớ gái xinh đẹp thường bị vợ cả ghen tuông hành hạ. Cặp kè
nam sắc, thói xấu long dương43F
44 càng khó biết. Đầu lâu đắp thịt, riêng mê đắm kỹ
nữ điên cuồng. Bồ Tát rủ mày, cũng giận kẻ ô nhục ni cô thanh tịnh.
Kinh truyện chép: “Nam hữu thất, nữ hữu gia, vật tương, vật tương độc
dã” (Trai có vợ, gái có chồng, chẳng nên khinh nhờn họ). Sách Lễ Ký nói: “Nội
ngoại loạn, cầm thú hạnh, tắc tất diệt chi, tắc hữu thiệt thượng sán hoa, hà đoan
thố thái” (Trong ngoài dâm loạn, tức là làm chuyện cầm thú, quốc gia ấy sẽ bị
tiêu diệt, lưỡi mọc ung nhọt lở loét, lông mày tạp loạn, lộ vẻ tà dâm). Dụ người
đọa lạc núi tà, phạt ngươi trầm luân biển khổ! Kẻ tự phụ văn nhân tài tử, nhiều
phen thốt lời gợi thú phong lưu, khiến người nữ lâm vào cảnh oán thán, bậc trượng
phu thất chí, trở thành dung tục. Tả những chuyện hò hẹn dưới trăng, bàn chuyện
trong buồng the; một lời tổn thương sự hòa hợp trong trời đất, xằng bậy soạn dâm
thư, muôn kiếp chịu tội trong chốn Nê Lê. Diễn xuất vở tuồng dâm uế, tiếng hát,
nụ cười, có ai nghĩ ngợi? Vẽ vời tranh ảnh dâm đãng trong chốn kín đáo, phơi bày
vẻ lõa lồ, há [kẻ nào] có thể không bị vấy bẩn? Say sưa ca hát khúc nhạc diễm
tình, hồn phiêu đãng, phách nay tan nát! Ngụy tạo toa thuốc tiên, bổ dương, thái
âm, chính là đường lối dẫn vào tam đồ, há chẳng gây thêm oan nghiệt gấp cả trăm
lần?
Đã có lời giáo huấn vứt bỏ những khúc ca nước Trịnh, hãy nên nghe theo
lời ấy. Nghĩ những bài Tụng nước Lỗ, đều không chứa lời tà vạy. Những giáo
huấn ấy hãy còn, sao không dứt niệm dâm, chuyển thành chuộng đức? Không suy

chuyện suồng sã, khiến cho cô dâu mới phải gánh bao nhiêu lời ong tiếng ve châm biếm,
nghi ngờ. Long Dương: Long Dương tức là Long Dương Quân (không rõ tên thật là gì), là tước
hiệu của một viên quan, do rất đẹp trai nên được Ngụy An Ly Vương (Cơ Ngữ) say đắm,
hết sức sủng ái, phong cho một chức quan lớn để sớm tối kề cận, hoan lạc. Theo chương
Ngụy Sách trong Chiến Quốc Sách, có lần cùng vua đi câu cá, Long Dương Quân khóc lóc,
tỏ ý lo ngại trong tương lai sẽ có người dâng người đẹp hơn để hầu hạ vua, khiến vua sẽ
ruồng rẫy ông ta. Ngụy An Ly Vương bèn hạ lệnh: “Kẻ nào dám dâng mỹ nữ, mỹ nam lên
vua, sẽ bị tru di cửu tộc”. Sau này, chữ Long Dương thường được dùng để chỉ đồng tính
luyến ái nam. Truyện (傳) nói chung là những bản chú giải các tác phẩm kinh điển trong Nho gia. Câu
này xuất phát từ sách Quả Tử, không rõ chữ Truyện ở đây chỉ tác phẩm chú thích nào. Ông Minh Tịnh giảng: “Nội ngoại loạn” nghĩa là trong gia tộc làm chuyện loạn luân, đó
là nội loạn. Chung chạ bừa bãi với người ngoài, đó là ngoại loạn.
 Câu này trích từ sách Lễ Ký, thiên Nhân Thể, chúng tôi dịch câu này theo lời dẫn giải
của trang từ điển trực tuyến Bách Độ.
 Khổng Tử đã từng phê bình những khúc dân ca nước Trịnh chứa toàn lời lẽ dâm đãng. Lỗ Tụng là những bài hát ca ngợi đức đẹp hoặc bậc hiền nhân trích từ các khúc hát của
nước Lỗ.
nghĩ hòng giữ đạo vô vi; hễ có vật, ắt sẵn pháp tắc. Nghĩ đến lúc sẩy tay nơi vách
đá cheo leo, lửa dục khó hừng! Hãy gấp quay đầu nơi bờ kia, đừng đắm chìm
trong làn sóng dữ!
Có thể sửa lỗi, phước vẫn có thể tự cầu, thiện càng có thể chuyển dời; chắc
chắn có thể tiêu họa chẳng lường. Kẻ áo xanh dẫn đi, Hồng học sĩ tăng thêm tuổi
thọ. Giấy vàng gởi tới, Hạng tú tài chợt đỗ đạt cao. Thoát bởi đó, mà xoay
chuyển cũng nhờ vào đó, báo ứng phân minh, chẳng thể trốn tránh, vẫn có thể
thay đổi. Vãn hồi trong khoảnh khắc, tội chẳng giáng xuống kẻ sám hối. Mộng
dự vào cõi thanh lương, chuyện phi lễ chớ nên theo đuổi. Bóng, mền mênh mang
trời đất, hãy chí thành thực hiện. Trong luân thường kỷ cương, chỉ chú trọng
hiền đức, chẳng quan tâm sắc đẹp, vui thú vợ con. Cưới hỏi đúng lễ, ai nấy ngâm
bài “đào non vu quy”. Đừng ham vẻ đẹp tươi non, mơn mởn bên ngoài, màn
loan đẹp mộng, cúi đầu vẻ mặt mơ hồ, sáo phượng, lời ca mới mẻ, bóng quỷ kéo
lưỡi đáng gờm!
Trong tâm răn dè như sắt, há vướng vào lưới pháp hay sao? Trên đầu chữ
Sắc (色), vốn đã chứa đao (刀), sát cơ đã lộ. Sống ham niềm hoan lạc hữu hạn,
chết chịu nỗi khổ vô cùng. Có thể nhẫn, kiên nhẫn, nhẫn nại rất mực, thần phải
kính phục. Thấy chuyện dâm, ý dâm, lời dâm, đều ngừa trời giận. Phải cự tuyệt
kẻ toan dâm bôn, ngâm câu gió mát, trăng thanh, càng phải nêu cao quyết liệt
 Xin xem cụ thể những chuyện này trong phần phước thiện và họa dâm án.
 Theo ông Minh Tịch, đoạn này nên hiểu như sau: Đã phạm tà dâm, báo ứng sẽ xảy đến,
chẳng thể trốn tránh nên nói là “chẳng thể trốn tránh”, nhưng nếu khi gặp báo ứng, sám
hối, thề chẳng tái phạm thì vẫn có thể giảm nhẹ quả báo nên nói là “vẫn có thể thay đổi”.
Người đã sám hối, nghiệp chướng tiêu trừ, xa lìa ác báo, ngủ nghỉ an ổn, chẳng gặp ác
mộng.
 Câu này xuất phát từ thành ngữ “khâm ảnh vô tàm” (chẳng thẹn với bóng áo). Thành
ngữ này lại xuất phát từ chương Thận Độc trong bộ Tân Luận: “Cố thân hằng cư thiện, tắc
nội vô ưu lự. Ngoại ô úy cụ. Độc lập nhi bất quý ảnh, độc tẩm bất quý khâm” (Vì thế, thân
luôn giữ điều thiện, ắt trong là chẳng có lo âu, ngoài chẳng sợ hãi. Đứng một mình chẳng
thẹn với cái bóng của chính mình, ngủ một mình chẳng thẹn với mền).
 Chỉ quan tâm vợ có hiền thục, đức hạnh hay không, chẳng bận tâm vợ có nhan sắc hay
không.
 Đây là nói đến bào Đào Yêu trong thiên Quốc Phong của kinh Thi: “Đào chi yêu yêu,
chước chước kỳ hoa, chi tử vu quy, nghi kỳ thất gia” (Cây đào non mởn, chi chít những
hoa, nàng về nhà chồng, êm ấm thuận hòa). Cổ văn thường dùng chữ Đào Yêu để chỉ hạnh
phúc gia đình đầm ấm.
 Ông Minh Tịch giảng: Đừng ham tưởng thiếu nữ xinh tươi đẹp đẽ, hoặc thiếu niên dung
mạo sáng sủa, khôi ngô, đến nỗi do tham đắm sắc đẹp đến nỗi trong giấc ngủ vẫn mơ
mộng, trước tác hoặc diễn tấu những ca từ dâm đãng để rồi chết đi bị đọa vào địa ngục
Bạt Thiệt.
 Ý nói đến chuyện ông Lục Công Dung cự tuyệt kẻ dâm bôn dùng thơ quyến rũ, chòng
ghẹo (xin xem câu chuyện này trong phần Phước Thiện).
câu “khe sương, sông tuyết!” Đối với thú vui chồng vợ, cũng chớ nên ham hố
quá nhiều! Chuyện giường chiếu của người khác, há nên dễ dãi rêu rao? Kẻ khinh
bạc chốn thanh lâu, thôi đừng phóng túng ba năm! Ngọc trắng không tỳ vết, do
nhàn nhã, viết thành bài phú.
Nhận định: Bài phú này do danh sĩ xứ Việt Trung là thương nhân Bái Đình
soạn. Có một đêm, ông ta mộng thấy Văn Xương Đế Quân bảo: “Ngươi có tài
soạn thơ phú, sao không soạn một bài phú giới sắc, hãy vì ta mà cảnh tỉnh người
đời”. Tỉnh giấc, ông ta liền viết ra bài này. Lúc đặt bút viết, dường như có thần
giúp sức, từng chữ đều khít khao đúng lý, từng câu đều khiến [người đọc] sáng
mắt, kinh tâm. Nguyện bậc văn nhân tài sĩ trong thiên hạ, hãy nên ngâm vịnh
nhiều lượt, suy nghĩ kỹ càng! Luôn dè dặt như vào khe sâu đầy sương phủ, hoặc đi trên mặt sông đóng băng. Việt Trung chính là Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang hiện thời.
SỰ CHỨNG
Phước thiện án (những câu chuyện kể về được phước do làm lành)
* Trong niên hiệu Tuyên Đức đời Minh, Văn Trung Công Tào Nãi thi đậu
khoa thi Hương, được bổ làm Học Chánh. Do ông không nhậm chức, nên được
đổi sang làm chức Điển Sứ huyện Thái Hòa. Do bắt cướp, bắt được một cô gái,
giữ tại công quán. Cô ta rất đẹp, muốn theo ông. Ông nghiêm khắc quở: “Há có
thể xâm phạm gái chưa chồng ư?” Bèn lấy giấy viết bốn chữ “Tào Nãi bất
khả” (Tào Nãi chẳng thể) đem đốt. Sáng ra, gọi mẹ cô ta đến lãnh về. Về sau, khi
đang làm văn sách trong kỳ thi Đình, chợt có một tờ giấy bay tới rớt trước ghế, có
bốn chữ “Tào Nãi bất khả”, thế là ý văn dồi dào, đậu Trạng Nguyên.
* Thầy thuốc họ Trần ở Dư Hàng, có người nghèo mắc bệnh nguy ngập được
ông Trần chữa lành, mà cũng chẳng đòi phải đền đáp. Về sau, do đụt mưa, ông
Trần vào nhà ấy. Mẹ chồng bảo vợ người ấy hãy ngủ với ông để báo ân. Người
vợ vâng lời, đến khuya bèn mò đến chỗ ông, thưa: “Ngài đã cứu chồng thiếp. Đây
là ý mẹ chồng”. Ông Trần thấy cô ta trẻ tuổi, xinh đẹp, cũng động tâm, tận lực
kiềm chế [dục niệm], tự nhủ: “Không thể được”. Cô ta nài ép, ông Trần liên tiếp
bảo: “Không được!”, ngồi đợi trời sáng. Cuối cùng, gần như chẳng thể kềm mình
được, lại hô to hai chữ: “Hai chữ ‘không thể’ quá khó!” Trời vừa rạng sáng bèn
bỏ đi. Ông Trần có đứa con đi thi. Quan giám khảo loại bỏ bài văn của nó, chợt
nghe có tiếng hô: “Không thể”. Khêu đèn đọc lại, lại gạt bỏ. Lại nghe có tiếng hô
liên tiếp: “Không thể”. Cuối cùng quyết ý loại bỏ, chợt nghe có tiếng hô to “hai
chữ ‘không thể’ khó quá” liên tục không dứt. Do vậy bèn cho đậu. Sau khi yết
bảng [công bố kết quả], [quan chủ khảo] bèn gọi nó đến hỏi nguyên do. Đứa con
ấy cũng chẳng hiểu. Trở về, kể với cha, cha bảo: “Đấy là chuyện lúc ta còn trẻ,
không ngờ trời báo đáp ta như thế”.
* Phùng Thương tuổi đã trung niên chẳng có con. Vợ thường khuyên chồng
cưới thiếp để sanh con trai. Về sau, trên đường lên kinh đô, ông mua một người
thiếp. Đã ký xong bằng khoán, giao tiền, hỏi tên tuổi cô ta; cô ta nức nở, không
đáp được. Cố gạn hỏi, cô đáp: “Do cha thiếp nhận chuyển giao hàng hóa cho quan
phủ, [bị thất thoát] mà mắc nợ, phải đem thiếp bán đi để lấy tiền trả nợ”. Ông
Phùng thương xót, lập tức trả cô ta về với cha, chẳng đòi tiền lại. Khi trở về, vợ
hỏi: “Người thiếp đâu rồi?” Ông kể cặn kẽ nguyên do. Vợ bảo: “Ông dụng tâm Tuyên Đức là niên hiệu của Minh Tuyên Tông (Châu Chiêm Cơ) từ năm 1425 đến năm
1435. Học Chánh (學正) là chức quan quản nhiệm quy củ, khảo thí trong trường Quốc Tử Giám. Điển sứ (典史) là chức quan thuộc cấp huyện, châu, thấp hơn Tri Huyện một bậc, có trách
nhiệm bắt phạm nhân, điều tra các vụ án, canh tù, lưu giữ hồ sơ vụ án.
như thế, lo gì không con”. Mấy tháng sau, vợ hoài thai. Buổi tối hôm vợ ông sắp
sanh, người trong làng đều thấy tiếng trống, tiếng kèn rộn rã, tuyên bố: “Đưa
Trạng Nguyên tới nhà họ Phùng”. Sanh con trong ngày hôm ấy, tức là Phùng
Kinh. Về sau, [Phùng Kinh] đỗ Tam Nguyên, làm quan tới chức Thái Tử Thiếu
, rồi làm Tể Tướng, quan chức rất vinh hiển.
* Đời Minh, ông Tôn Kế Cao ở Vô Tích, dạy học tại một nhà nọ. Bà chủ sai
cô hầu gái biếu thầy một chén trà, trong chén có bỏ một chiếc nhẫn vàng. Ông
Tôn giả vờ không biết, bảo cô hầu gái dọn đi. Đêm đến, cô hầu đến gõ cửa, bảo:
“Bà chủ đến đấy!” Ông vội lấy một tấm ván lớn, chặn cửa không cho vào. Ngày
hôm sau xin về, người khác hỏi nguyên do, ông đáp: “Học trò không thể dạy
được!” Trọn chẳng lộ chuyện ấy. Về sau, ông Tôn đỗ Trạng Nguyên, con cháu
quý hiển.
* Cha ông Châu Toàn ở Ôn Châu, đông con, nhà nghèo. Hàng xóm giàu có,
không con, sai người thiếp xin giống. Đêm đến, mời cha ông Châu Toàn uống
rượu, người chồng giả vờ say lui ra, người thiếp ra bồi tiếp, nói rõ nguyên nhân.
Cha ông Toàn kinh ngạc, vùng đứng dậy, nhưng cửa đã đóng, bèn vung tay viết
lên không trung rằng: “Muốn truyền thuật gieo giống, lại sợ thần trên trời”, xoay
mặt vào vách, không ngó ngàng tới [người thiếp ấy]. Năm Ất Mão niên hiệu
Chánh Thống , ông Châu Toàn thi Hương trúng tuyển. Thái Thú nằm mộng
thấy đón tiếp vị Tân Trạng Nguyên, tức là ông Châu Toàn, trên cờ hiệu đề chữ
lớn “muốn truyền thuật gieo giống, lại sợ thần trên trời”.Quan Thái Thú chẳng
đoán được nguyên do. Quả nhiên, ông Toàn đỗ Trạng Nguyên vào năm Bính Thìn.
Thái Thú chúc mừng, nhân đấy, kể lại chuyện đã thấy trong mộng. Cha ông Toàn
thưa: “Đấy là câu nói do lão phu đã viết lên không trung vào hai mươi năm trước”,
còn tên họ của người trong chuyện trọn chẳng nói ra. Thái Tử Thiếu Sư chính là thầy dạy học cho Thái Tử. Thái Tử thường có ba vị quan kèm
cặp, gọi là Thái Tử Thái Sư, Thái Tử Thái Phó và Thái Tử Thái Bảo. Lại đặt ra ba chức quan
phụ tá gọi là Đông Cung Tam Thiếu, tức Thái Tử Thiếu Sư, Thái Tử Thiếu Phó và Thái Tử
Thiếu Bảo. Chánh Thống là niên hiệu từ năm 1436 đến năm 1449 của Minh Anh Tông (Châu Kỳ
Trấn). Ở đây, có lẽ năm Âm Lịch đã bị chép lầm, vì không có năm nào là năm Ất Mão (乙卯
) trong niên hiệu Chánh Thống. Có lẽ là năm Đinh Mão (丁卯, 1447), tức năm Chánh Thống
thứ mười hai. Thái Thủ (太守, ta thường đọc thành Thái Thú), còn gọi là Quận Thủ là người đứng đầu
một quận. Chức vụ này đã có từ thời Chiến Quốc, vì các nước chư hầu đều chia thành nhiều
quận, viên quan đứng đầu một quận sẽ gọi là Quận Thủ. Đến khi nhà Tần xóa bỏ chế độ
chư hầu, chia toàn thể Trung Hoa thành ba mươi sáu quận thì Quận Thủ có oai quyền rất
lớn. Mãi đến đời Tây Hán mới đổi Quận Thủ thành Thái Thủ. Sau khi nhà Đông Hán thiết
lập chức châu mục thì Thái Thủ mới thấp hơn Châu Mục hoặc Thứ Sử một cấp. Từ đời Tùy
trở đi, chức quan Thái Thủ bị phế trừ. Từ đời Tống trở đi, Tri Phủ hoặc Tri Châu thường
được gọi thông tục là Thái Thủ.
* Đời Minh, ông Lục Công Dung ở Thái Thương, dáng dấp rất đẹp đẽ. Vào
năm Thiên Thuận thứ ba (1459), đi thi ở Nam Kinh. Trong quán trọ, có nữ nhân
nửa đêm đến chỗ ông ngủ, toan tằng tịu. Thoạt đầu, ông viện cớ mắc bệnh, hẹn
đêm sau. Cô ta lui ra. Ông bèn làm thơ rằng: “Phong thanh nguyệt bạch dạ song
hư, hữu nữ lai khuy tiếu độc thư, dục bả cầm tâm thông nhất ngữ. Thập niên tiền
dĩ bạc Tương Như” (Song thưa gió mát trăng thanh, cô gái ngấp nghé trêu anh
học trò, mượn đàn toan những hẹn hò, mười năm trước đã phụ phàng Tương Như).
Đợi đến sáng, ông mượn cớ rời khỏi. Mùa Thu năm ấy đi thi. Trước đó, cha ông
ta nằm mộng thấy quan Quận Thủ tặng cờ, tấm, [kèm thêm một đội] trống, kèn.
Trên tấm biển ấy, đề bốn chữ “nguyệt bạch phong thanh”. Người cha nghĩ là điềm
báo con thi đậu, viết thư gởi cho ông. Ông càng thêm dè dặt. Về sau, đỗ Tiến Sĩ,
làm quan tới chức Tham Chánh.
* Ở Tỳ Lăng, có một ông họ là Tiền, làm việc thiện, nhưng không có con
nối dõi. Trong làng có cụ Dụ bị kẻ có thế lực xiết nợ, bị gông xiềng giam cầm, vợ
con đói rét, xin vay tiền ông. Ông trao tiền đúng số, chẳng giữ bằng khoán mượn
nợ. Chuyện được giải quyết, cụ Dụ dẫn vợ con đến cảm tạ. Bà vợ ông Tiền thấy
con gái của họ xinh đẹp, muốn mua về làm thiếp. Vợ chồng ông Dụ hoan hỷ. Ông
Tiền bảo: “Thừa dịp người ta gặp khó khăn tức là bất nhân. Ý ta vốn làm lành, kết
cục trở thành chuyện để thỏa dục, tức là bất nghĩa. Ta thà không có con, quyết
chẳng dám phạm!” Vợ chồng ông Dụ khóc lóc bái tạ, lui về. Tối hôm ấy, vợ ông
Tiền nằm mộng thấy có vị thần bảo: “Chồng bà âm đức rất trọng, sẽ ban cho bà
đứa con quý”. Năm sau, quả nhiên sanh một trai, đặt tên là Thiên Tứ. Vào năm
mười tám tuổi, [Thiên Tứ] liên tiếp đỗ đạt, làm quan đến chức Ngự Sử.
* Trầm Đồng ở Quy An, có tên tự là Quán Di, nhà nghèo. Người anh trong
họ là Tốn Châu giới thiệu ông đến nhà sui gia dạy trẻ vỡ lòng. [Nhà ấy] mẹ góa,
con thơ. Một đêm, bà góa đến dụ dỗ ông làm chuyện chim chuột, Trầm Đồng
nghiêm khắc cự tuyệt. Ngày hôm sau liền từ tạ trở về. Bà góa sợ lộ chuyện, sắm
sửa lễ vật van nài [Trầm Đồng trở lại dạy học]. Lại thúc giục Tốn Châu mời giùm
mấy lượt, ông đều chẳng nhận lời. [Tốn Châu] vặn hỏi nhiều lần, ông Đồng trọn
chẳng hé môi, chỉ nói “bất tiện” mà thôi! Năm sau, [Trầm Đồng] đỗ đạt, làm quan
tới chức Tuần Phủ.
 Thiên Thuận là niên hiệu của Minh Anh Tông (Châu Kỳ Trấn) từ năm 1457 đến năm 1464
sau khi giành lại ngôi vua từ tay em trai là Minh Cảnh Đế (Châu Kỳ Ngọc) Tham Chánh (參政) là một chức quan khá cao cấp trong nền hành pháp thuở trước. Cùng
với Đồng Bình Chương Sự (同評章事, Tể Tướng) và Xu Mật Sứ (樞密使) gọi chung là Chấp
Chánh. Các vị như Phạm Trọng Yêm, Vương An Thạch… đã đều từng đảm nhiệm chức vụ
này.
* Vương Chí Nhân là thương gia ở tỉnh An Huy, đã ba mươi tuổi không có
con. Có thầy bói nói: “Vào tháng Mười này, ông sẽ gặp đại nạn”. Ông Vương vốn
hết sức tin tưởng tài bói toán của người ấy; do vậy, vội vàng sang Tô Châu kiểm
điểm sổ sách để [mau chóng] quay về quê nhà. Buổi chiều, ngẫu nhiên tản bộ,
thấy một phụ nữ gieo mình xuống nước. Ông Vương vội lấy mười lạng bạc, gọi
thuyền chài cứu lên. Hỏi nguồn cơn, cô ta đáp: “Chồng tôi làm công sống qua
ngày, tôi nuôi lợn bán lấy lời. Hôm qua đem bán, không ngờ bị trả toàn là bạc giả,
sợ chồng trở về trách mắng, không muốn sống nữa, cho nên toan tìm cái chết”.
Ông Vương thương xót, bù tiền đầy đủ. Cô ta trở về kể với chồng, chồng không
tin, bèn cùng với vợ tới chỗ ông Vương hỏi han. Ông Vương đã ngủ. Bà vợ gõ
cửa, gọi to: “Người đàn bà gieo mình xuống nước đến cảm tạ”. Ông Vương sẵng
giọng quát: “Ngươi là thiếu phụ, ta là người khách lẻ loi. Đêm khuya làm sao gặp
gỡ cho được?” Người chồng run sợ, thưa: “Vợ chồng tôi cùng có mặt”. Ông Vương
bèn khoác áo ra tiếp. Cửa vừa mới mở, bỗng tường đổ sụp, chiếc giường ông đã
nằm bị đè nát vụn. Vợ chồng người ấy cảm thán từ biệt. Sau đó, ông trở về nhà.
Thầy bói gặp mặt, hết sức kinh hãi, bảo: “Khắp mặt ông hiện toàn nét âm chất.
Ắt là ông đã từng cứu mạng người khác. Sau này, phước sẽ chẳng thể lường được!”
Về sau, ông sanh liên tiếp mười một đứa con, thọ đến chín mươi sáu tuổi, vẫn
khoẻ mạnh.
* Dương Hy Trọng đời Tống là người huyện Tân Tân. Lúc còn hàn vi, ngồi
dạy học tại một nhà giàu ở Thành Đô. [Tay nhà giàu ấy] có một người thiếp xinh
đẹp, tự phụ tài sắc, tới chỗ ông ở để lả lơi chòng ghẹo. Hy Trọng nghiêm mặt cự
tuyệt. Vợ ông Hy Trọng nằm mộng thấy thần bảo: “Chồng bà ở một mình nơi đất
khách, trong chốn phòng kín chẳng dám khinh nhờn, sẽ đỗ đạt đứng đầu nhiều
người, hòng tỏ rõ thiện báo”. Năm sau, quả nhiên ông Dương đỗ đầu tỉnh Tứ
Xuyên.
* Hiếu liêm họ Trình ở Huy Châu, nhà ở bên một con suối nhỏ. Cây cầu gỗ
bắc qua suối rất hẹp. Có một cô gái đến thăm người thân đi qua đó, trượt chân, rơi
xuống nước. Hiếu liêm sai người cứu lên, sai vợ hong khô quần áo. Trời đã tối,
[cô ta] không thể trở về, lại bảo vợ ngủ chung với cô ta. Hôm sau, đưa cô ta về
nhà mẹ. Bố mẹ chồng [sắp cưới của] cô ta nghe tin, không vui, bảo: “Con dâu
chưa qua khỏi cửa, đã ngủ đêm tại nhà người ta, chẳng phải là hạng gái tốt đẹp”,
sai bà mối từ hôn. Hiếu liêm nghe tin, đích thân đến đó, tận lực khuyên nhủ, khiến
cho cô ta được thành hôn. Chưa đầy một năm, chồng chết, để lại một đứa con
trong bụng vợ. Từ đấy, bà góa dạy con, đọc sách dưới đèn, thường ứa nước mắt
nói: “Nếu con thành danh, đừng quên ơn của ông hiếu liêm họ Trình”. Đứa con
ấy còn bé đã đỗ đạt, năm Bính Thìn đi thi Hội, mỗi khi viết xong một bài, ắt đều
đọc to lên, vỗ bàn đắc ý. Sau đấy bỗng òa khóc ầm ĩ. Khéo sao, hiếu liêm ở trong
lều thi gần đó, vội hỏi nguyên cớ. Thiếu niên đáp: “Bảy bài văn đều tột bậc đắc
ý, chẳng ngờ muội đèn rơi xuống, đều đốt thủng quyển chép bài thi, ắt sẽ bị loại
bỏ. Cháu khóc là do lẽ ấy”. Ông Trình nói: “Tiếc cho bài văn hay, trở thành vô
dụng. Nếu chịu cho tôi chép lại, thi đậu, tôi sẽ hậu tạ”. Thiếu niên bèn trao quyển
thi cho ông Trình chép. Quả nhiên, ông đỗ Tiến Sĩ. Sau khi yết bảng, thiếu niên
đến chỗ ông Trình đòi báo đáp. Ông Trình rót rượu mời uống; do đó, thiếu niên
hỏi: “Ngài có âm đức gì chăng, do văn chương của tôi mà thành danh?” Ông Trình
tự xét lại đời mình, chẳng có âm đức chi khác. Thiếu niên cố gạn hỏi không ngừng,
thật lâu sau, ông Trình kể chuyện trước kia đã từng cứu một người nữ. Thiếu niên
quỳ mọp xuống đất, lạy thưa: “Tiên sinh là đại ân nhân của mẹ cháu, dám đòi báo
đáp ư?” Nhân đó, kể lại lời mẹ thường khóc kể trước đèn, và coi ông Trình như là
thầy mình. Hai nhà bèn kết sui gia.
* Từ Ngang là người xứ Dương Châu, đi thi Hội vào mùa Xuân. Trong kinh
thành có thầy bói họ Vương đoán quẻ phần nhiều rất đúng. Ông Từ đến xem bói,
ông Vương bảo: “Tướng ông không có con, biết làm sao được?” Về sau, ông Từ
thi đậu, làm quận thủ Tây An. Trên đường, mua được một cô gái rất xinh đẹp làm
thiếp. Ông Từ hỏi han dòng dõi. Cô ta đáp: “Cha tôi là ông X… làm quan xứ nọ,
mất vào năm nọ. Vào năm đói kém, tôi bị kẻ cường bạo bắt đem bán tới đây”.
Ông Từ hết sức thương xót, liền đốt bằng khoán, chẳng lấy cô ta làm thiếp. Đến
chỗ trấn nhậm, sắm sửa đầy đủ của hồi môn, chọn người đàng hoàng để gả. Mãn
nhiệm, trở về kinh, ông Vương trông thấy, kinh hãi nói: “Tướng ông khác hẳn,
khắp mặt toàn là tướng có con cái. Lẽ nào chẳng phải là do âm đức gây nên ư?”
Chẳng lâu sau, người tiểu thiếp của ông sanh liên tiếp năm đứa con!
* Diêu Tam Cửu vốn họ Biện, học rộng, giỏi thơ văn, ngồi dạy học tại nhà
họ Hoài. Có cô gái thường lén nhòm ngó, ông Biện tỉnh bơ, chẳng ngó ngàng tới.
Một hôm, ông phơi giày ngoài sân, cô gái viết thư bỏ vào đó. Nhận được thư, ông
Biện mượn cớ, từ tạ quay về. Viên Di Hạnh [viết thư thăm dò, trong thư] có kèm
một bài thơ, có những câu [ngụ ý châm chọc] như sau: “Nhất điểm trinh tâm kiên
phi thạch, xuân phong đào lý mạc tương sai” (Một tấm lòng trinh bền tựa đá, gió
xuân đào mận chẳng thèm ngờ). Ông Biện viết thư trả lời, cực lực biện định hoàn
toàn chẳng có chuyện [trăng hoa] ấy. Viên Di Hạnh trịnh trọng viết lên phong bì
của bức thư ấy như sau: “Đức hết sức sâu dầy, con cháu ắt hưng thịnh”. Về sau,
con ông Biện là Kham, chắt là Tích, đều đỗ Tiến Sĩ.
* Lâm Tăng Chí là người Ôn Châu, thờ Phật, giữ giới. Một hôm, mộng thấy
bảng trời, thấy đề tên mình đỗ thứ mười. Dưới đó, viết sáu chữ: “Bất sát, bất dâm
chi báo”(Quả báo do chẳng giết, chẳng dâm). Năm Mậu Thìn, quả nhiên ông đỗ
hạng mười.
* Hà Trừng do làm nghề y mà nổi tiếng. Có người họ Tôn ở cùng quận mắc
bệnh đã lâu chẳng lành, mời ông Trừng đến chữa trị. Vợ người ấy ngầm nói với
ông Trừng: “Chồng tôi bị bệnh đã lâu, của cải đã bán sạch hết rồi. Xin đem thân
tôi để đền đáp tiền thuốc”. Ông Trừng nghiêm mặt, từ chối: “Sao bà lại hồ đồ nói
như vậy? Nhưng hãy yên tâm, đừng lo, ta sẽ chữa trị cho chồng bà, đừng dùng
chuyện ấy làm xấu ta, cũng như ô nhục chính mình”. Vợ người ấy hổ thẹn, cảm
kích, lui ra. Đêm ấy, ông mộng thấy có một vị thần, dẫn đến một tòa công thự. Vị
chủ tòa công thự ấy bảo: “Ngươi làm nghề y có công, lại chẳng do người ta gặp
cảnh ngặt nghèo mà dâm loạn phụ nữ của kẻ khác. Ta tuân theo sắc chỉ của
Thượng Đế, thưởng cho ngươi một chức quan, tiền năm vạn đồng”. Chẳng lâu
sau, Thái Tử bị bệnh, [hoàng đế] hạ chiếu vời Hà Trừng đến chữa trị, [Thái Tử]
lành bệnh. Vua ban thưởng chức quan và tiền bạc đúng như giấc mộng.
* Cha của Cao Thượng Thư ở Dương Châu buôn bán khắp một giải Nam
Kinh và Hán Khẩu. Ở nơi quán trọ, thường ngửi thấy mùi hương An Tức ngát
mũi. Một hôm, bỗng thấy một vệt kẽ hở nơi vách tường, ông dòm qua khe hở,
thấy cô gái đang ngồi một mình. Hôm sau, ông hỏi thăm chủ nhân, hóa ra cô ấy
là con gái ông ta. Hỏi sao không gả đi, ông ta đáp: “Chọn rể khó lắm!” Vài hôm
sau, ông tìm kiếm được một chàng rể, bảo chủ nhân: “Tôi thấy chàng X… ở hàng
xóm rất được, muốn đứng ra làm mai. Ông thấy thế nào?” Chủ quán trọ đáp: “Ý
tôi cũng nghĩ thế, nhưng nhà đó nghèo nàn!” Ông bảo: “Không sao đâu! Tôi sẽ
cho họ mượn tiền chi phí hôn lễ”. Bàn xong chuyện cưới gả, còn tặng nhà ấy mấy
chục lạng bạc để lo liệu tốt đẹp hôn sự. Ông trở về, mộng thấy thần nói: “Ông vốn
không có con, nay ban cho ông một đứa, có thể đặt tên là Thuyên”. Năm sau, quả
nhiên sanh một trai. Về sau, Thuyên đỗ Tiến Sĩ, làm quan tới chức Thượng Thư.
* Chư sanh Trầm Loan ở Tùng Giang, tuổi đã trung niên vẫn chưa có con
nối dõi. Nhà nghèo, phải đi làm gia sư. Một đêm, trở về nhà gặp mưa, cửa đã
đóng. Nghe trong nhà có tiếng gái tơ. Hỏi vợ [vọng qua cửa] thì ra là con gái nhà
hàng xóm do thấy vợ ông ta quạnh quẽ nên đến bầu bạn. Ông Trầm dặn vợ đừng
mở cửa, đội mưa lánh đi, ngủ tại đạo quán. Trong đêm ấy, mộng thấy Thượng Đế
 Chư sanh (諸生) là danh hiệu gọi chung những thư sinh đã được vào học trường công.
Nói chi tiết, những người đã đỗ Tú Tài (còn gọi là Cống Sanh), đã đủ tư cách dự vào tầng
lớp sĩ đại phu, được vào học các trường quốc lập tại châu, huyện, phủ thì gọi chung là
Tường Sanh. Nói cụ thể, người đã đậu kỳ thi Hương với điểm ưu có thể được chọn vào học
trường Quốc Tử Giám thì gọi là Cống Sanh. Học trò xuất thân là con quan, do thành tích
ưu tú được vào học Quốc Tử Giám thì gọi là Giám Sanh. Học trò trường phủ huyện, được
cấp gạo hàng tháng thì gọi là Tăng Sanh. Những người được lấy thêm ngoài con số quy
định của Tăng Sanh thì gọi là Phụ Sanh. Những người học giỏi, hoàn cảnh khó khăn, chưa
đỗ đạt, sẽ được châu huyện trợ cấp, nhưng mỗi năm phải thi cử để xét xem có đủ tư cách
giữ địa vị ấy hay không, được cấp gạo hàng tháng thì gọi là Lẫm Sanh (hay Lẫm Thiện
Sanh).
trao cho sợi tơ hai màu. Tỉnh giấc thì mới là giờ Tý. Thấy trong điện thờ bốn phía
sáng rực, năm sắc chói mắt. Chính là vì mây tan, trăng chiếu vào điện thờ khiến
mọi vật rực rỡ. Từ đấy, ông sanh liên tiếp hai đứa con, trưởng là Văn Hệ, thứ là
Khả Thiệu, nối tiếp nhau đỗ đạt.
* Đời Thanh, Thái Khải Truyền ở huyện Đức Thanh thoạt đầu đi thi Hương,
khi ấy, không có con. Vợ dành riêng ba mươi lạng để mua một người thiếp. Đón
người thiếp về, [cô ta] cứ khóc mãi không thôi. Ông hỏi nguồn cơn, [cô ta] thưa:
“Chồng tôi do mắc nợ trong quân doanh cho nên đến nỗi này”. Ông bèn đi suốt
đêm đi đến nhà chồng cô ta, bảo [người nhà của anh ta]: “Tôi sẽ vì mấy người
giải quyết chuyện này. Nay tôi không thể về; hễ về thì tâm tư lẫn hành vi đều
không minh bạch”. Đợi đến khi người lính từ quân doanh trở về, ông Thái nói cặn
kẽ nguyên do cùng người đó, bảo: “Ông lấy giấy nợ ra đây, tôi sẽ trả tiền”. Ông
bèn sai người đem kiệu rước người vợ trả lại cho chồng, tặng họ ba mươi lạng bạc.
Về sau, phu nhân liền sanh con. Năm Canh Tuất (1670) đời Khang Hy, ông thi
đậu.
* Đời Minh, Văn Chánh Công Tạ Thiên, thuở trẻ, ngồi dạy học tại nhà nọ ở
Tỳ Lăng. Có cô gái thừa dịp cha mẹ đi vắng, đến dụ dỗ ông tằng tịu. Ông khuyên
can: “Phụ nữ chưa lấy chồng mà đã thất thân với người khác, sẽ bị điếm nhục suốt
đời, sẽ khiến cho cha mẹ, chồng, họ hàng đều bị mất mặt”. Ông nghiêm mặt, cự
tuyệt. Cô gái ấy hổ thẹn, rút lui. Ngày hôm sau, ông lập tức từ tạ, xin nghỉ dạy.
Về sau, vào năm Ất Mùi (1475) trong niên hiệu Thành Hóa, ông đỗ Trạng
Nguyên, làm quan tới chức Thừa Tướng, con là Phi làm quan đến chức Thị Lang.
* Phí Xu là người đất Thục (Tứ Xuyên) lên kinh đô thi Hội. Vào lúc chạng
vạng, một người đàn bà tới bảo: “Tôi là con nhà buôn vải vóc. Sau khi xuất giá,
chồng chết, nghèo hèn, không trở về nhà được, xin theo nương cậy ông”. Ông Phí
nói: “Ta chẳng muốn phạm tội phi lễ, sẽ mời cha ngươi đến đón”. Cho người hỏi
dò cha người ấy khắp nơi, cho biết tình trạng của nữ nhân ấy. Cha cô ta khóc lóc,
cảm tạ, đem con gái về. Ngay trong năm ấy, ông Phí thi đậu, làm quan đến chức
Thái Thú.
 Thành Hóa là niên hiệu của Minh Hiến Tông (Châu Kiến Thâm) từ năm 1464 cho đến
năm 1487. Ất Mùi là năm Thành Hóa thứ mười một. Thị Lang (侍郎) là chức quan đã có từ đời Hán, là thuộc hạ của Thượng Thư. Đời Đông
Hán quy định, năm đầu nhậm chức sẽ gọi là Lang Trung, năm thứ hai gọi là Thượng Thư
Lang, năm thứ ba trở đi mới gọi là Thị Lang. Từ đời Tùy trở đi, quyền hành của Thượng
Thư Đài lớn dần, quyền lực và trách nhiệm của Thị Lang cũng tăng theo. Đời Thanh, đối
với mỗi bộ lại còn lập ra Hữu Thị Lang và Tả Thị Lang. Như vậy, Thị Lang tương đương
với chức Thứ Trưởng hiện thời.
* Ông Cận ở Trấn Giang đã năm mươi tuổi mà không con. Dạy trẻ vỡ lòng
tại huyện Kim Đàn. Thấy con gái nhà hàng xóm khá xinh xắn, vợ ông liền bán
thoa, xuyến, mua về làm thiếp. Ông trở về nhà, bà vợ bày rượu trong phòng, bảo
ông: “Tôi đã già chẳng thể sanh nở. Nàng này khá hiền lành, chắc có thể sanh con
nối dòng cho nhà họ Cận”. Ông cúi đầu, đỏ mặt tía tai. Bà vợ cho rằng mình có
mặt thì chồng sẽ ngần ngại, bèn đi ra, đóng chặt cửa lại. Ông bèn leo qua cửa sổ
thoát ra, bảo vợ: “Ý bà tốt lành, nhưng tôi thường bồng bế cô ta thuở bé, luôn
mong cô ta sẽ được gả vào chỗ đàng hoàng. Tôi đã già rồi, lại còn lắm bệnh, chẳng
thể làm nhục cô ta được”, bèn trả cô ấy về. Năm sau, bà vợ sanh ra Văn Hy Công,
mười bảy tuổi đã đậu Giải Nguyên, năm sau đỗ nghè. Về sau, [Văn Hy Công]
là một vị Tể Tướng hiền đức.
* Thư sinh họ Tào ở Tùng Giang đi thi. Ở quán trọ, có người đàn bà tìm đến
[dụ dỗ]. Ông Tào kinh hãi, vội chạy sang chỗ khác tá túc. Đi nửa đường, thấy có
ánh đèn dẫn đường, dẫn vào một tòa cổ miếu. Nghe đánh trống thăng đường, ông
Tào phủ phục trước miếu. Nghe trong điện thờ xướng danh những người được ghi
tên trong bảng tân khoa. Tới người thứ sáu, lại [có nha lại] bẩm rằng: “Ông X…
gần đây làm chuyện sai trái, Thượng Đế gạch tên, hãy nên bù người nào vào?”
Thần nói: “Ông Tào ở Tùng Giang chẳng hành dâm với người đàn bà ở quán trọ,
là bậc chánh khí, đáng thêm tên vào”. [Nha lại] bèn thêm tên ông Tào vào. Ông
Tào [nghe phán bảo như vậy] vừa sợ hãi, vừa vui mừng. Quả nhiên [về sau] đỗ
thứ sáu.
* Đời Minh, tại Chiết Giang có viên Chỉ Huy Sứ, mời thầy đến dạy con.
Thầy bị bệnh, con đem mền đắp cho thầy đổ mồ hôi, vô ý cuộn theo cả chiếc hài
của mẹ làm rớt dưới giường của thầy. Thầy lẫn trò đều không biết. Chỉ Huy Sứ
trông thấy, bèn nghi ngờ, vào hỏi vợ, vợ chẳng nhận, bèn sai đứa tớ gái giả vờ
vâng lệnh vợ đến mời thầy, cầm đao chờ sẵn sau đó. Hễ thầy mở cửa sẽ giết ngay.
Thầy nghe tiếng gõ cửa, hỏi chuyện gì. Đứa tớ gái thưa: “Bà chủ cho mời thầy”.
Thầy nổi giận, quát mắng đứa tớ gái, không chịu mở cửa. Chỉ Huy Sứ lại ép vợ
mình đích thân đến mời. Thầy vẫn kiên quyết cự tuyệt, bảo: “Tôi được ông Đông
mời về, há lén lút làm chuyện xấu xa ư? Xin hãy mau quay về”, trọn chẳng mở
cửa. Viên Chỉ Huy Sứ mau chóng nguôi giận. Hôm sau, thầy xin thôi dạy. Viên
Chỉ Huy Sứ cảm tạ, thưa: “Tiên sinh đúng là bậc quân tử” rồi mới kể lại chuyện
ấy để tạ tội. Ngay trong năm ấy, thầy thi đỗ, làm quan to.
 Kể từ đời Minh, người đỗ đầu trong kỳ thi Hương gọi là Giải Nguyên. Đời Minh, nhằm phân tán quyền lực quan lại đứng đầu các tỉnh (tức quan Tuần Phủ),
triều đình đã lập ra ba chức quan khác biệt dưới Tuần Phủ, gồm Đô Chỉ Huy Sứ (gọi tắt là
Chỉ Huy Sứ, trông nom việc quân sự), Bố Chánh Sứ (coi hành việc hành chánh và tài
chánh), và Án Sát Sứ (coi việc kiện tụng, tư pháp).
* Ông Lâm Mậu Tiên ở Tín Châu, tài học hơn người, đã được chọn đi thi
Hương. Nhà hết sức nghèo, đóng cửa, đọc sách. Vợ một tay hàng xóm rất giàu,
chán ghét chồng thất học, riêng hâm mộ tài danh của Mậu Tiên, ban đêm tìm đến
toan chung chạ. Mậu Tiên quở trách: “Nam nữ khác biệt, lễ pháp chẳng dung.
Trời, đất, quỷ thần la liệt đông kín, há có thể ô nhục ta ư?” Bà ta hổ thẹn lui về.
Năm sau, Mậu Tiên thi đậu, ba đứa con trai đều đậu Tiến Sĩ.
* Đời Thanh, ông Viên ở Thiểm Tây. Do giặc Sấm (Lý Tự Thành) dấy
loạn, cha con thất lạc, trôi nổi, ngụ tại Giang Nam, muốn cưới thiếp sanh con.
Vừa mua được vợ, rước về nhà ông Viên, cô ta xoay lưng về ánh đèn, khóc lóc.
Ông Viên gạn hỏi, cô ta đáp: “Chẳng có gì khác. Chỉ vì trong nhà đói nghèo,
chồng muốn tìm cái chết, cho nên thiếp bán thân để chồng được sống. Thiếp nghĩ
tới vợ chồng tình sâu nghĩa nặng trước nay; vì thế, khôn ngăn đau thương vậy”.
Ông thương xót, xoay lưng ngồi đợi sáng. Ngoài số tiền bán thân ra, còn tặng
thêm một trăm lạng, trả người vợ cho chồng, bảo họ hãy buôn bán. Vợ chồng họ
khóc lóc ra đi. Về sau, họ muốn tìm một cô gái chưa chồng, tặng cho ông Viên
để sanh con, nhưng tìm đã lâu chẳng được. Ngẫu nhiên tới Dương Châu, gặp một
người đem một đứa bé khôi ngô muốn bán; do vậy, họ bàn riêng với nhau: “Ta
chưa tìm được cô gái nào. Trước hết, hãy mua đứa trẻ này về hầu hạ ông Viên, có
gì là không được?” Bèn mua lấy, vượt sông, tặng nó cho ông Viên. Ông Viên nhìn
kỹ, thì ra là đứa con đã bị thất lạc. Báo ứng thần kỳ như thế đó!
* Đời Minh, Văn Định Công Lục Thụ Thanh là người xứ Vân Gian. Năm
Tân Sửu, ông lên miền Bắc. Khi ấy, quận thủ là Vương Công Hoa nằm mộng thấy
trong sân của miếu Thành Hoàng có nhiều cây to đều vang ra tiếng tán thán ông
ta là bậc thiện sĩ. Do vậy, gọi bố vợ của ông ta là ông Lý đến hỏi: “Thường ngày,
Thụ Thanh đã làm những việc thiện nào?” Ông ta thưa không biết rõ, [chỉ biết
Thụ Thanh] đối với chuyện tà sắc chẳng cẩu thả mà thôi! Về sau, [Thụ Thanh] đỗ
đầu kỳ thi Hội, con là Ngạn Chương đậu Tiến Sĩ vào năm Kỷ Sửu.
 Lý Tự Thành (1606-1645) vốn có tên là Hồng Cơ, người huyện Mễ Chỉ tỉnh Thiểm Tây,
giỏi võ nghệ, xuất thân là phu dịch trạm chuyên chạy công văn cho triều đình. Do làm ăn
tắc trách, Tự Thành bị đuổi việc, lại mắc nợ khắp nơi. Từng bị thưa kiện, phải đeo gông
cùm, may được bạn bè chạy chọt mới thoát. Cuối năm đó, ông ta giết chủ nợ. Khi biết vợ
ngoại tình, ông giết luôn vợ, trốn đi đăng lính, làm đến chức Bả Tổng dưới trướng Tổng
Binh Cam Châu là Dương Khải Cơ. Do thất thoát quân lương, để trốn tội, Lý Tự Thành bèn
giết cấp trên là tham tướng Vương Quốc và huyện lệnh, dựng cờ khởi loạn. Do nhà Minh
đã suy yếu, đồng thời bị quân Hậu Kim tấn công liên tiếp càng suy yếu hơn, Lý Tự Thành
thừa thế xưng vương, chiếm được kinh thành, lật đổ nhà Minh, xưng đế, lấy hiệu là Đại
Thuận. Về sau, Ngô Tam Quế liên minh cùng quân Thanh đánh bại Lý Tự Thành, quân
Thanh chiếm trọn Trung Hoa. Lý Tự Thành chạy trốn, đến chùa Giáp Sơn ở huyện Thạch
Môn, tỉnh Hồ Nam bèn xuống tóc đi tu, xưng hiệu là hòa thượng Phụng Thiên Ngọc. Có
thuyết khác nói ông ta bị giết tại núi Cửu Cung, nhưng thuyết thứ nhất khả tín hơn vì được
chép trong nhiều sách huyện chí của tỉnh Hồ Nam.
* Đường Cao thuở trẻ đọc sách dưới đèn, có cô gái lả lơi chòng ghẹo, xé giấy
dán cửa sổ. Ông dán lại xong xuôi, đề thơ rằng: “Đào chỉ song dung dị bổ, tổn
nhân âm chất tối nan tu” (Giấy dán song, xé rồi dễ vá; tổn đức người, há dễ đền
bù?) Về sau, một vị Tăng đi qua cửa nhà ấy, thấy có một tấm biển đề chữ Trạng
Nguyên, hai bên treo hai ngọn đèn, trên đèn viết hai câu ấy, lấy làm lạ, hỏi han.
Sau này, quả nhiên Đường Cao đỗ Trạng Nguyên.
* Đời Minh, Trương Úy Nham ở Giang Âm nằm mộng thấy mình tới một
tòa nhà cao, tìm được một danh sách ghi tên người đỗ đạt, trong ấy có nhiều dòng
bị bỏ trống. Hỏi người bên cạnh, họ bảo: “Đấy là danh sách người dự thi năm
nay”. Hỏi vì sao nhiều tên bị bỏ trống. Đáp: “Thi cử thì cứ ba năm khảo hạch [đức
hạnh] một lần, phải là kẻ tích đức, không lầm lỗi thì mới có tên. Những chỗ bị
khuyết là tên của những kẻ được ghi tên từ trước, do gần đây mới phạm lỗi nên bị
xóa tên”. [Người ấy] chỉ vào một hàng sau đó, bảo: “Ông bình sinh chẳng có dâm
nghiệp, có lẽ sẽ được ghi bổ sung vào đây, hãy nên biết tự thương xót mình”.
Khoa thi năm ấy, quả nhiên đỗ hạng một trăm lẻ năm.
* Đời Minh, thư sinh họ Tôn ở Ninh Ba, nhà nghèo, đi dạy vỡ lòng cho trẻ.
Suốt năm, chẳng qua là được trả mấy lạng bạc. Về sau, mất chỗ dạy học, bèn ở
nhờ nhà họ Trương ở Đường Tây, sao chép [sách vở để lấy tiền công sống qua
ngày]. Đứa tớ gái nhà ấy chờ đêm thâu tìm đến rủ rê chim chuột. Ông nghiêm
khắc cự tuyệt. Đứa tớ gái bèn dan díu với một thầy giáo khác cùng sống trong nhà
ấy. Đến tiết Đoan Ngọ, ông giáo ấy xin thôi dạy học vì bị sanh ghẻ lở, trị mãi
không lành. Ông được cử làm gia sư để thay thế. Về sau, gặp người chú tại cửa
sông, người chú bảo: “Do con ta bị bệnh, ta cầu đảo Thành Hoàng. Đên nằm mộng
thấy Thành Hoàng ngồi trên điện, gọi nha lại đem sổ ghi tên kẻ đói rét ra sửa.
Người hầu đọc tên để thần xem xét. Đọc hơn mười mấy tên, tới tên của cháu, ta
ngầm hỏi nha lại: “Họ Tôn do duyên cớ gì mà được sửa chữa?” Nha lại đáp:
“Người này năm bốn mươi sáu tuổi, lẽ ra phải bị chết đói trong khi lưu lạc bên
ngoài. Do đêm Mười Tám tháng Tư năm nay, cự tuyệt ả nọ dụ dỗ làm chuyện dâm
bôn. Vì vậy được tăng thêm tuổi thọ hai kỷ (hai mươi bốn năm), sửa thành được
ghi tên trong sổ hưởng lộc. Ta rất mừng cho cháu vậy”. Về sau, ông được người
theo học càng đông. Mỗi năm thu được hơn trăm lượng bạc. Đến năm ông bốn
mươi sáu tuổi, nhằm đúng năm Vạn Lịch 36 (1608), giá gạo vọt lên rất cao, người
chết khá đông, nhưng ông vẫn dư dả. Đến khi con ông đã trưởng thành, nhà đã
giàu to. Đến tuổi cổ hy (bảy mươi), ông không bệnh tật mà mất.
* Văn Hy Công Đào Đại Lâm lúc mười bảy tuổi, dung mạo đẹp đẽ, đi thi
Hương. Ở chỗ trọ, có cô gái hàng xóm đến [dụ dỗ] ăn nằm; ba lần tìm đến, ông
đều ba lượt từ khước, rồi tìm chỗ trọ khác. Chủ chỗ trọ ban đêm nằm mộng thấy
thần bảo: “Ngày mai có bậc tú sĩ đến, chính là người sẽ đỗ đầu. Do người ấy lập
chí đoan chánh, có thể không loạn dâm cùng đứa con gái dâm bôn, Thượng Đế
đặc biệt cho đỗ đầu”. Chủ chỗ trọ kể chuyện nằm mộng với ông Đào, ông Đào
càng thêm gắng sức. Sau đó, ông Đào đỗ Bảng Nhãn, làm quan tới chức Đại Tông
.
* Cha ông Thời Bang Mỹ là nha tướng tại Trịnh Châu. Tuổi đã sáu mươi mà
không có con. Một lần, áp tải quân lương tới Thành Đô, vợ bảo hãy mua thiếp
đem về. Ông tìm được một cô gái rất đẹp, ngó thấy cô ta dùng vải trắng buộc tóc.
Hỏi han, cô ta khóc đáp: “Cha thiếp vốn là người xứ Đô Hạ, làm lính hầu cho phó
quan của châu này, [bị chết], đưa quan tài đến đây thì không [đủ tiền để] trở về,
[mẹ phải] đem bán thiếp để lo tang ma”. Cha ông Bang Mỹ thương xót, đem tiền
giúp đỡ bà mẹ, trả lại con gái. Lại còn lo liệu thỏa đáng cho họ trở về. Khi trở về
nhà, ông kể chuyện này với vợ. Bà vợ bảo: “Giúp người ta trong cơn nguy cấp,
đức hạnh rất lớn; chuyện nạp thiếp tôi sẽ lo liệu cho ông”. Không lâu sau, bà vợ
hoài thai. Một đêm, mộng thấy một người sắc vàng tía ngồi đoan nghiêm giữa
nhà. Sáng ra bèn sanh Bang Mỹ. Bang Mỹ đỗ đầu kỳ thi Hội, làm quan tới chức
Lại Bộ Thượng Thư.
* Đời Minh, cha của Triệu Bỉnh Trung, [Bỉnh Trung] là Trạng Nguyên năm
Mậu Tuất (1598) trong niên hiệu Vạn Lịch, làm ấp duyện. Có người do thừa kế
chức tước của cha mà làm Chỉ Huy Sứ bị tù oan. Ông Triệu dốc sức giúp đỡ mới
được thả. Chỉ Huy Sứ cảm kích, hổ thẹn vì không thể đền ơn, bèn dâng con gái
làm hầu non cho ông. Ông Triệu xua tay bảo: “Đó là con gái nhà đàng hoàng,
không thể được”. Người ấy cứ nài ép, lại xua tay: “Không được”. Rốt cuộc chẳng
thuận theo. Về sau, con ông (Triệu Bỉnh Trung) ngồi xe công, trên đường có người
bám vào kiệu của ông nói: “Đây là vị Trạng Nguyên nhà ông Không Được Phép”,
nói mấy lượt như thế. Khi thi đậu, Bỉnh Trung quay về, kể chuyện cùng cha. Ông
bố thở dài nói: “Đó là chuyện hai mươi năm trước, ta chưa hề kể với ai. Thế mà
thần minh lại nói với con”.
* Ông Lữ Cung làm gia sư tại nhà nọ, ban đêm thường đọc sách. Có góa phụ
trẻ tuổi ở gần nhà bỗng nương theo ánh trăng tìm tới [gạ gẫm]. Ông nghiêm khắc
cự tuyệt. Hôm sau, cô ta lại sai thị tỳ cầm sang biếu hai con cá bằng ngọc. Ông
đập nát ngọc. Đứa tớ gái hổ thẹn lui về. Về sau, ông làm tới chức Cung Bảo, chưa
 Đại Tông Bá (大宗伯) chính là một chức quan coi về lễ nghi thuộc Lục Khanh vào đời Tây
Châu. Do vậy, sau này, người ta quen gọi Lễ Bộ Thượng Thư là Đại Tông Bá. Ấp Duyện (邑掾): Duyện (掾) có nghĩa là “giúp đỡ”. Do vậy, chức phó quan thường gọi là
Duyện. Ấp Duyện là quan phó ấp. Chữ Ấp không có nghĩa hẹp như xóm ấp trong tiếng Việt.
Thời Chiến Quốc, lãnh thổ một nước chư hầu gọi là Ấp (từ đó diễn thành ý nghĩa “đất
phong của các quan to cũng được gọi là Ấp hay Thái Ấp”). Về sau, chữ Ấp chỉ kinh đô của
một nước, dần dần biến chuyển thành ý nghĩa đô thành lớn, một thị trấn đông dân cư. Ấp
ở đây phải hiểu theo nghĩa “huyện”, vì quan huyện thường được gọi là Ấp Úy hoặc Ấp Tể.
hề kể với ai chuyện này. Ngẫu nhiên, trong khi dạy học có nhắc tới, trọn chẳng
tiết lộ danh tánh của người ấy!
* Đời Tống, ông Hoàng Tĩnh Quốc làm phán quan ở Nghi Châu. Một đêm,
bị dẫn vào cõi âm. Viên quan trong cõi âm hỏi: “Ở Nghi Châu có một chuyện tốt
đẹp, ông có biết hay không?” Sai nha lại đem sổ cho xem. Thì ra có thầy thuốc
tên là Niếp Tùng Chí, vào ngày tháng năm đó, đến chữa bệnh tại một nhà nọ ở
Hoa Đình. Vợ người bệnh ấy muốn dan díu với ông, Tùng Chí tận lực cự tuyệt.
Thượng Đế sắc truyền Tùng Chí được tăng thọ hai kỷ, con cháu hai đời đều đỗ
đạt. Tĩnh Quốc quay về, kể với Tùng Chí. Tùng Chí đáp: “Tôi chưa hề kể chuyện
này với vợ con, không ngờ đã được ghi chép trong sổ sách cõi âm”. Về sau, quả
nhiên Tùng Chí sống thọ, con lẫn cháu đều đỗ đạt.
* Đời Minh, Mao Lộc Môn vào độ tuổi nhược quan (hai mươi tuổi) sang Dư
Diêu học, ở trọ nhà họ Tiền ngay trước cửa miếu thờ Thành Hoàng. Có đứa tớ gái
xinh đẹp, hâm mộ phong thái của chàng Mao. Một đêm, mò tới thư phòng, [giả
vờ] gọi kiếm mèo. Lộc Môn bảo: “Vì sao cô một mình tới đây gọi kiếm mèo?”
Đứa tớ gái cười đáp: “Tôi chẳng phải là gọi tiểu miêu (mèo con), mà là thích Đại
Mao”. Lộc Môn nghiêm mặt, đáp: “Cha sai ta đi xa cầu học. Nếu vô lễ xâm phạm
cô, ngày sau, làm sao nhìn cha được? Lại còn có mặt mũi nào nhìn gặp chủ nhân
của cô?” Đứa tớ gái hổ thẹn lui ra. Về sau, Lộc Môn thi đỗ vào khoa Mậu Tuất
(1538) trong niên hiệu Gia Tĩnh, làm quan tới chức Phó Sứ, thọ chín mươi tuổi.
* Viên nha lại họ Cố ở Bắc Tân Quan, Hàng Châu, vâng lệnh quan sang
Giang Nam lo việc. Ban đêm, ông dừng thuyền bên bờ sông tại Tô Châu, thấy
một thiếu phụ toan trầm mình, bèn ngăn lại, hỏi han. Cô ta đáp: “Chồng thiếp do
thiếu quan lương mà bị bắt giam, tánh mạng sẽ mất trong sớm tối, không nỡ
lòng thấy chồng chết trước, cho nên tự tận”. Ông Cố mở túi tiền, biếu cô năm
mươi lạng bạc. Cô ta cảm tạ, rời đi. Khi trở về, thuyền lại đi qua chỗ ấy, ông đến
quán rượu ngồi, khéo sao đối diện cửa quán chính là nhà của thiếu phụ ấy. Vợ kể
chuyện ấy với chồng, mời ông về nhà, bày rượu tiếp đãi. Chồng bảo vợ: “Cái ân
cứu mạng do nghèo nàn chẳng báo đáp được. Nàng hãy ngủ với ông ta để đền
đáp”. Do vậy, họ giữ ông Cố ngủ lại. Nửa đêm, người vợ đến chỗ ông Cố ngủ
[toan ân ái]. Ông Cố dứt khoát cự tuyệt, khoác áo trốn về thuyền. Khi ấy, trong
thành Hàng Châu bị hỏa hoạn, cháy rụi mấy chục nhà. Mọi người thấy trong ánh
lửa có vị thần mặc giáp vàng, tay vung vẩy lá cờ đỏ vòng quanh một ngôi nhà.
 Quan lương (官糧) ở đây là lương thực chu cấp cho một cơ quan hành chánh như huyện,
phủ vào thời đấy. Chồng cô ta đảm trách chuyển vận lương thực hay coi kho mà để thất
thoát nên mới bị tội.
Lửa cháy tới đó, bèn dồn ngược lại. Khi lửa tắt nhìn xem thì ra là nhà ông Cố, mọi
người đều cho là vì âm đức mà ra!
* Đời Minh, Văn Nghị Công La Luân đi thi Hội. Thuyền đi qua Tô Châu.
Đêm nằm mộng, [La Luân] thấy Phạm Văn Chánh Công (Phạm Trọng Yêm) đến
thăm, bảo: “Trạng Nguyên năm sau thuộc về tay ngươi”. Ông Luân khiêm tốn từ
tạ, chẳng dám nhận. Ông Phạm bảo: “Chuyện ở lầu nọ vào năm nọ, quả thật đã
gây tiếng vang rất lớn. Dùng chuyện này để báo đền ngươi vậy!” Do đó, La Luân
nhớ năm xưa đã từng cự tuyệt kẻ nữ dâm bôn ở lầu ấy. Giấc mộng đúng là chẳng
hư vọng, đến khi thi Đình, quả nhiên đậu hạng nhất.
* Đời Minh, Mạc Văn Thông ở Vân Gian chuộng làm lành, sống cách quận
thành hai dặm. Nhà ông ta nhiều đời theo nghề nông. Một hôm, cầm hai mươi
lạng bạc vào hương trấn mua thóc giống, đậu thuyền ở Hoàng Phố. Thấy có hai
người trói một cô gái, muốn dìm xuống bến sông. Ông Mạc hỏi thăm, họ đáp:
“Đây là con gái của chủ nhân tôi. Chủ nhân tôi xét thấy cô này tư tình với kẻ khác,
nên sai đem dìm xuống dòng nước chảy xiết!” Ông Mạc nói: “Cô gái nhỏ này thì
biết gì chớ? Lại chẳng chính mắt thấy chuyện đó, không chừng là chuyện chẳng
thật, mong hãy thả đi, xin đền hai mươi lạng”. Cô gái được cứu thoát, dập đầu
trước ông Mạc, xin theo hầu hạ chiếu chăn. Ông Mạc bảo: “Há có phải vì ta yêu
mến dung mạo của cô! Mà là đặc biệt thương xót cô trẻ tuổi bị chết mờ ám đó
thôi! Nay trời đã tối mịt, mà thuyền ta nhỏ hẹp khó dung. Cô hãy mau lên bờ, đi
đến chỗ có ánh đèn là được rồi”. Đêm ấy, trở về nhà, mộng thấy thần bảo: “Ông
cứu mạng người khác, âm đức sâu nặng. Trời báo đáp cho ông có con cháu hiền
hòa”. Về sau, con ông là Thắng do đậu khoa thi Minh Kinh , được làm quan.
Cháu là Hạo, đỗ thứ hai trong kỳ thi Hương. Con Hạo tên là Ngu cũng đậu Cử
Nhân. Con của Ngu là Như Trung cũng đỗ thứ hai trong kỳ thi Hương, đậu Tiến
Sĩ vào năm Mậu Tuất (1538) trong niên hiệu Gia Tĩnh, làm quan tới chức Phương
. Cô gái ấy bỏ trốn, được một văn sĩ thâu nhận, sanh sáu đứa con trai, một Minh Kinh là một khoa thi được đặt ra từ đời Hán dưới thời Hán Vũ Đế, đến đời Tống
Thần Tông thì bị phế trừ. Do khoa thi này chú trọng khảo hạch mức độ tinh thông nghĩa
lý của kinh điển Nho gia nhất là Tứ Thư và Ngũ Kinh, nên gọi là Minh Kinh. Tuy vậy, Minh
Kinh yêu cầu không cao lắm, có nhiều cấp bậc, tối thiểu là thông thạo một bộ đại kinh
(chẳng hạn như Lễ Ký, Xuân Thu Tả Truyện), một bộ trung kinh (như Châu Lễ, Lễ Nghi)
và một bộ tiểu kinh như Xuân Thu Cốc Dương Truyện là được rồi. Do đó mới có thành ngữ:
“Tam thập lão Minh Kinh, ngũ thập thiếu Tiến Sĩ” (ba mươi tuổi mà đậu Minh Kinh là đã
quá già, năm mươi tuổi mới đỗ Tiến Sĩ vẫn còn trẻ lắm). Từ đời nhà Minh trở đi, những
người đã đỗ Cống Sanh (Tú Tài) đều gọi chung là đậu Minh Kinh. Thậm chí, do đỗ đạt làm
quan đều gọi là “đã đậu Minh Kinh”.
 Phương Bá là cách gọi thông tục chức Thừa Tuyên Bố Chánh Sứ Ty Bố Chánh Sứ, còn gọi
là Phiên Đài hoặc Phiên Ty. Như tên gọi đã chỉ ra, chức vụ này chính là vị Bố Chánh Sứ
đứng đầu cơ quan Thừa Tuyên Bố Chánh Sứ Ty. Một Thừa Tuyên Bố Chánh Sứ Ty cai quản
đứa trong số ấy bằng tuổi với Ngu. Hà Tam Úy viết bộ Thiện Nhân Truyện đã
chép chuyện này!
* Tường sanh họ Liễu nhập học tại đất Hàng, do sang thăm người thân, mắc
mưa, tìm chỗ ngủ tạm tại một vườn hoang. Trước đó, đã có một thiếu phụ đụt mưa
tại đấy. Liễu sinh suốt đêm không có ý lạ gì khác, ngồi ngay ngắn dưới mái thềm
bên ngoài. Đến sáng bèn bỏ đi. Người đàn bà ấy chính là vợ của tường sanh họ
Vương. Cô ta cảm phục đức hạnh của Liễu sinh bèn kể chuyện với chồng. Ông
chồng đâm ra nghi ngờ. Về sau, Liễu sinh đi thi Hương, bài văn của chàng đã bị
loại. Trong khoảnh khắc, bỗng lại thấy đặt trên bàn. Quan giám khảo kinh dị, đọc
kỹ bài văn ấy, chẳng thấy có ý hay nào, lại loại bỏ. Về sau, sắp đem các quyển
bài thi đạt điểm trình lên chủ khảo, lại thấy quyển bài thi của Liễu sinh ở trong số
ấy. Do vậy nghĩ tên học trò này ắt có âm đức, bèn cùng trình lên. Rốt cuộc Liễu
sinh đậu hạng bảy mươi mốt. Khéo sao, [bài thi của] Vương sinh được xếp cùng
phòng với Liễu sinh. Khi tấn yết (thí sinh đến triều bái quan giám khảo sau khi
thi đậu), Vương sinh có mặt. Vị chủ khảo của phòng ấy kể rõ nguyên do chọn lựa
Liễu sinh; nhân đấy, cật vấn. Liễu sinh nghĩ không còn chuyện nào khác, bèn thưa
lại chuyện đụt mưa. Vương sinh cảm thán, đón vợ về sum họp, lại đem em gái gả
cho Liễu sinh tục huyền.
* Đời Minh, Cố Tá làm châu lại tại Thái Thương, biết nỗi oan của người
bán bánh họ Giang bèn bẩm lên quan. Được thả ra, ông Giang dẫn con gái tới nhà
ông Tá, thưa: “Không có gì để đền đáp, xin hãy nhận đứa con gái này làm thiếp”.
Ông Tá nhất quyết từ chối. Về sau, nhiệm kỳ nha lại đã hết, ông Tá làm việc tại
nha môn Thị Lang. Một hôm, ông tới nhà riêng của quan Thị Lang. Phu nhân của
quan Thị Lang trông thấy ông Tá, bèn nói: “Ông chẳng phải là Cố đề khống ở
Thái Thương ư? Có biết tôi hay không?” Ông Tá ngạc nhiên. Phu nhân nói: “Tôi
là con gái người bán bánh. Về sau, được bán cho một thương nhân. Thương nhân
nuôi tôi như con gái. Tôi được gả làm vợ lẽ cho tướng công, sau đấy, trở thành
chánh thất (vợ cả). Thường hận không có cách nào để báo đền ân đức. Tôi sẽ nói
với tướng công chuyện này”. Quan Thị Lang sau khi đã biết rõ chuyện này, [tâu
một khu vực rất lớn, tương đương với một tỉnh hiện thời. Đến đời Thanh, chức vụ Bố
Chánh Sứ chỉ là phụ tá của Tuần Phủ, đặc trách sự vụ hành chánh.
 Do số lượng quyển thi nhiều, nên phải chia thành nhiều phòng để chấm thi. Mỗi phòng
do một vị khảo quan (thường là một vị khoa bảng văn tài lỗi lạc) đứng đầu, dưới vị ấy có
các vị quan cấp thấp hơn phụ tá.
 Châu lại: Tiếng gọi chung người giúp việc hoặc thuộc cấp của quan đứng đầu một châu
(tức tri phủ hoặc tri châu).
 Đề Khống (提控) có hai nghĩa: Một là chức quan trông coi về binh quyền; hai là tiếng
tôn xưng các nha lại làm việc dưới quyền tri phủ hoặc tri huyện, vì Đề Khống có nghĩa gốc
là khống chế hoặc chưởng quản. Chữ Đề Khống ở đây hiểu theo nghĩa thứ hai.
lên hoàng đế]. Vua Hiếu Tông [nhà Minh] hết sức khen ngợi, thăng cấp cho Cố
Tá làm chức Lại Bộ Chủ Sự.
* Vào năm Kỷ Hợi (1659) niên hiệu Thuận Trị nhà Thanh, Từ Lập Trai ở
Côn Sơn là người đỗ đầu khoa thi Đình. Vừa mới thi đỗ không lâu, có người đến
van vái tại miếu Thành Hoàng; do đó, bèn ngủ lại miếu. Nửa đêm, thấy thần oai
nghiêm thăng tòa, gọi người ấy bảo: “Ngươi có biết duyên do khiến cho ông Từ
đỗ Trạng Nguyên hay không? Họ Từ nhiều đời chẳng dâm, tích lũy đức hạnh đã
lâu, cảm động lòng trời. Nay đỗ Trạng Nguyên mới chỉ là khởi đầu [cho những sự
báo ứng tốt lành về sau]. Công danh tuy kín nhiệm, quả báo sáng vằng vặc. Ta
nói cho ngươi biết tường tận, hòng khiến cho những kẻ mê mờ đối với chuyện
đứng đầu trong muôn điều ác (tức tà dâm) đều giác ngộ”. [Thành Hoàng] nói
xong, [thuộc hạ] thét dẹp đường, rời đi. Người ấy kính cẩn ghi lại để truyền bá
rộng rãi. Về sau, [em trai ông Từ] là Kiện Am thi đậu trong khoa thi năm Canh
Tuất, [người em kế là] Ngạn Hòa thi đỗ trong khoa thi năm Quý Sửu. Ba anh em
ruột đều đỗ Trạng Nguyên, con cháu nối tiếp nhau đỗ đạt.
* Đời Minh, ở huyện Tiền Đường, ông Lục Tả Thắc là người hiếu thảo với
cha mẹ, hòa thuận với anh em, học rộng, nghe nhiều, những hạnh tốt đẹp không
thể kể xiết, nhưng âm đức của ông ta người khác càng khó biết tới. Ông đã từng
trọ tại một căn nhà riêng của người bạn. Tối đến, có một phụ nữ xinh đẹp lén lút
tìm tới [giở trò quyến rũ]. Ông Thắc nghiêm khắc cự tuyệt, chẳng chấp thuận. Cô
ta xấu hổ, lui ra. Hôm sau, ông bèn mượn cớ rời đi, không ai biết chuyện. Đức
hạnh, phẩm đức của ông Thắc tuy chưa tỏ lộ rõ rệt, nhưng con cháu ông ta đều do
được tuyển làm Hiếu Liêm hay đỗ các kỳ thi Minh Kinh mà vang danh khắp làng
nước. Chắt là Tông Giai đậu Giải Nguyên trong khoa thi Hương, kế đó đỗ khoa
thi Hội. Con cháu đều rạng rỡ, thi đậu hạng cao, chưa hề gián đoạn. Quan Thị
Ngự Ngô Thanh Đàn ở Thạch Môn là học trò của ông Thắc, từng nghe kể chuyện
này bèn chép lại. Hiện thời, [chuyện này] được chép trong bộ Cảm Ứng Thiên Đồ
Thuyết, Vương Cú ở Kim Đàn đã soạn bài ký.
* Đời Minh, Mạo Khởi Tông từ bé đã kiền thành tụng niệm Cảm Ứng Thiên.
Năm Mậu Ngọ đi thi Hương, hôn mê như đang nằm mộng, cảm thấy thần giúp

 Chủ Sự là cấp quan văn thuộc hàm Chánh Lục Phẩm, trực thuộc các ty thuộc Lục Bộ, Lý
Phiên Viện, Thái Bộc Tự, và Tông Nhân Phủ. Nhiệm vụ chủ yếu là quản lý văn kiện cũng
như ghi chép các sự kiện. Theo quy chế đời Minh, trong Lại Bộ gồm nhiều ty, đứng đầu
mỗi ty là Lang Trung, viên phó quan sẽ gọi là Viên Ngoại Lang, kế đó là Chủ Sự.
 Nguyên văn “tiệp nam cung” (nhận được tin mừng từ nam cung). Theo quy chế đời Hán,
Thượng Thư Sảnh được coi là nằm ở phía Nam của cung vua, cho nên Thượng Thư Sảnh
thường gọi là Nam Cung. Từ đời Tống trở đi, do Lễ Bộ thuộc quyền quản trị Thượng Thư
Sảnh, nên Lễ Bộ cũng gọi là Nam Cung. Vì các kỳ thi Hội đều do Lễ Bộ tổ chức nên hễ thi
đậu trong kỳ thi Hội, đều gọi là “tiệp Nam Cung”.
sức viết xong văn sách, đỗ đạt trong kỳ thi Hương, nhưng rớt kỳ thi Hội, phải quay
về. Ông phát nguyện viết chú giải thêm cho sách Cảm Ứng Thiên. Do vậy, nghĩ
tới chuyện hiếu sắc là chuyện hết sức tổn đức. Vì thế, đối với điều “kiến tha mỹ
sắc” (thấy sắc đẹp của kẻ khác) đã chép đầy đủ các chuyện báo ứng.
Người giúp chép lại là La Hiến Nhạc ở Nam Xương. Năm Tân Dậu, ông La
được chọn vào học trường huyện. Đến tháng Giêng năm Mậu Thìn, ông La mộng
thấy ba vị tiên, một là cụ già đầu bạc áo vàng [đứng giữa], hai thiếu niên mặc áo
tía đứng hầu hai bên. Ông cụ lấy ra một quyển sách, nhìn thiếu niên bên trái, bảo:
“Ngươi đọc đi”. Người đứng bên trái đọc rõ ràng rất lâu, ông La trộm nghe, thì ra
là toàn bộ lời chú giải của ông Mạo đối với hai câu “kiến tha mỹ sắc…”. Đọc
xong, ông cụ bảo: “Đáng thi đậu!” Cụ xoay qua nhìn người đứng bên phải, bảo:
“Ngươi hãy làm một bài thơ vịnh”. Người ấy liền vịnh rằng: “Tham tương chiết
quế Quảng Hàn cung, tu tín tam thiên sắc thị không. Khán phá thế gian mê nhãn
tướng. Bảng hoa nhất đáo mãn thành hồng” (Cành quế cung trăng toan muốn bẻ,
phải tin trần thế, sắc là không. Nhìn thấu tướng mê trong thế giới, bảng hoa nức
tiếp khắp toàn thành). Ông La tỉnh giấc, gởi thư cho Mạo Khởi Tông, thuật cặn
kẽ chuyện trong mộng, bảo: “Ngài sẽ thi đậu, nhưng hai chữ Bảng Hoa khó hiểu”.
Khi niêm yết kết quả khoa thi, quả nhiên ông Mạo đỗ cao. Về sau, ở thư phòng
của Trần Tông Cửu, ông Mạo thấy trong sách Loại Thư có chú giải về hai chữ
Bảng Hoa như sau:“Vào thời Đường, khi bộ Lễ yết bảng, sẽ gọi những họ hiếm
thấy là Bảng Hoa”. Họ Mạo (冒) [do hiếm thấy] quả thật tương ứng [với chữ
Bảng Hoa].
Họa dâm án (Những chuyện mắc họa vì dâm)
* Lý Đăng đỗ Giải Nguyên lúc mười tám tuổi. Về sau, đến tuổi năm mươi,
vẫn chẳng đỗ Tiến Sĩ. Đến chỗ Diệp pháp sư để nhờ Sư hỏi nguyên nhân. Sư thưa
hỏi Văn Xương Đế Quân. Đế Quân sai thư lại cầm sổ đến, chỉ rõ: “Khi Lý Đăng
sanh ra, được Thượng Đế ban ấn ngọc, [định rằng] mười tám tuổi đậu Giải
Nguyên, mười chín tuổi sẽ đỗ Trạng Nguyên. Hai mươi tuổi sẽ làm Hữu Thừa
Tướng. Chỉ vì sau khi thi đỗ [Giải Nguyên], ngấm ngầm dòm ngó [chòng ghẹo]
gái hàng xóm. Tuy [chuyện tà hạnh] không thành công, lại ngược ngạo [kiếm cớ
cáo giác], khiến cho cha cô ta bị tù. Do chuyện này, công danh bị chậm trễ mười
năm, thứ hạng [từ Trạng Nguyên] bị giáng xuống hàng Nhị Giáp. Kế đó, lại lấn
chiếm nền nhà của anh mình, dẫn tới chuyện kiện cáo. [Công danh] lại bị chậm
trễ mười năm, thứ bậc đỗ đạt giáng xuống Tam Giáp. Sau đó, trong khách điếm
tại Trường An, lại làm chuyện dâm bôn với một người đàn bà nhà lành, [công
danh] lại bị chậm trễ mười năm. Nay lại lén lút tằng tịu với con gái nhà hàng xóm,
làm ác chẳng hối cải, tài lộc hoàn toàn bị tước sạch, sắp tới hạn kỳ chết rồi!” Sư
trở về thuật lại, ông Đăng xấu hổ, hối hận mà chết.
Nhận định: Lý Đăng đáng gọi là “kẻ tự chế tạo gông cùm lặp đi lặp lại” vậy.
Nếu sớm sanh lòng hối hận, tu đức để chuộc oan khiên, ắt sẽ đậu Trạng Nguyên,
làm Tể Tướng, có thể trả lại ngọc bích cho nước Triệu . Nếu chẳng vậy, lỡ làm
quấy một lần, về sau chẳng tái phạm nữa, ắt đối với chuyện đỗ đạt hiển vinh, hãy
còn được hưởng một nửa. [Trạng Nguyên, Tể Tướng] là do trời đất vun bồi, do tổ
tông tích lũy [âm đức], nay vì một mình ông ta [làm quấy mà bị] tước sạch! Phụ
bạc [ân đức của trời đất, tổ tiên] quá đỗi!
Lại nữa, thú vui dâm tà so với khoa bảng chẳng bằng một phần vạn; thế mà
đem đổi sự phú quý suốt cả một đời bằng niềm vui sướng trong chốc lát, há cũng
chẳng phải là quá sức ngu muội ư! Ôi! Người đỗ Trạng Nguyên sẽ làm Tể Tướng,
trong mấy trăm năm chỉ thấy một, hai người! Do tạo chuyện oan nghiệt ấy, mất
sạch chẳng còn sót gì! Huống hồ vận mạng của người khác chẳng bằng một phần
vạn Lý Đăng mà cùng tạo nghiệp giống như ông ta, tôi sợ rằng vị thần chưởng
quản tài lộc chưa chắc đã chỉ phạt thứ bậc đỗ đạt thấp hơn, lại còn kéo dài thời
hạn để mong ông ta sửa đổi! Nguy hiểm lắm thay! Những kẻ tài cao học rộng
trong hiện thời, đến tận tuổi già vẫn nghèo túng, khốn đốn, hãy nên tự xét những
chuyện đã làm để xem có phải là đã phạm vào loại tội nghiệt này hay chăng?
 Giải Nguyên (解元): Người đỗ đầu khoa thi Hương.
 Thời Chiến Quốc, nước Triệu sở hữu viên ngọc Biện Hòa, vua Tần đem mười thành đòi
đổi, nhưng vua Triệu từ khước. Về sau, Triệu bị Tần áp bức quá mức phải hiến ngọc. Thành
ngữ “hoàn bích quy Triệu” được sử dụng với ý nghĩa “sẽ trở lại tốt đẹp như ban đầu”.
* Từ sinh là con cháu nhà quan, tuổi trẻ đã nổi tiếng có tài, do lén lút ngấp
nghé sắc đẹp của gái hàng xóm, bèn dụ vợ mua chuộc để chèo kéo cô ta đến nhà
thêu thùa, khiến cho cô ta thường qua lại. Một hôm, sau khi Từ sinh đã nấp dưới
gầm giường, vợ giả vờ ra ngoài trông coi bếp núc. Từ sinh cưỡng gian cô ta.
Chuyện lộ ra. Cha mẹ cô gái ấy ép cô ta tự tử. Sau đấy, mỗi lần Từ sinh vào trường
thi, đều thấy cô gái ấy mặc quần áo dính máu đi đến, chẳng hề thi đậu. Về sau, bị
loạn quân giết chết!
* Trương Minh Tam theo cha đến chỗ trấn nhậm ở vùng Quỳnh Nhai, thông
gian với hai cô con gái viên quan Chỉ Huy Sứ gần đó, lén mang hai cô gái vượt
biển. Cha họ gấp rút đuổi theo, Minh Tam hết cách, đẩy hai cô xuống nước cho
chết đuối. Mười năm sau, Minh Tam bị đau thắt lưng, đón thầy thuốc họ Tôn đến
chữa trị. Bệnh hơi bớt, tối hôm ấy, ông Tôn mộng thấy hai cô gái lôi ông ta xuống
nước, bảo: “Thiếp vốn là người Quỳnh Nhai, đến đòi mạng họ Trương, cớ sao ông
ngăn trở chúng tôi báo thù?” Ông Tôn kinh hãi, tỉnh giấc, kể lại với Minh Tam.
Minh Tam đấm ngực than thở: “Oan nghiệt đã tới rồi! Ta nguy mất rồi!” Một
tháng sau bèn chết!
* Lưu Nghiêu Cử ở huyện Long Thư thuê một chiếc thuyền chở mình đi thi.
Chủ thuyền có một cô con gái, họ Lưu mấy lượt ve vãn, nhưng không có dịp nào
ra tay. Tới vòng thi thứ hai, họ Lưu ra khỏi trường thi rất sớm, nhằm đúng lúc chủ
thuyền vào chợ mua bán, bèn thông dâm với cô gái ấy. Đêm hôm ấy, cha mẹ của
ông Lưu mộng thấy thần bảo: “Cậu nhà lẽ ra đỗ đầu, nhưng vì làm chuyện bất
nghĩa, bảng trời đã xóa tên rồi!” Đến khi yết bảng, mới biết quan chủ khảo vốn
đã tính lấy họ Lưu đỗ đầu, nhưng do thấy [bài văn có chỗ] phạm trường quy bèn
loại bỏ. Họ Lưu hết sức hối hận; sau đấy, suốt đời chẳng đỗ đạt gì!
* Ở huyện Thường Thục có một tay viên ngoại lang họ Tiền, cậy vào tiền
tài, thế lực, ức hiếp kẻ khác. Trong làng, có một phụ nữ xinh đẹp, nhà nghèo, họ
Tiền bèn cho chồng cô ta mượn tiền để buôn vải ở Lâm Thanh hòng nhờ dịp đó,
tư thông với người vợ. Một hôm, chồng cô ta ra khỏi cửa, do thủy triều cạn, không
thể đi được, lại quay về, thấy họ Tiền đang ôm vợ mình, chè chén khoái trá. Chồng
vừa thẹn vừa giận, quay về thuyền. Họ Tiền ngầm mưu tính với vợ anh ta, đến
đêm sai người giả làm cướp giết chết. Họ hàng biết chuyện, thưa lên quan. Đã
nhận tội rồi, họ Tiền lại rải tiền bạc để chạy chọt, thoát khỏi xử phạt. Vừa ra tới
cửa thành, bỗng dưng giông tố ùa tới, hai kẻ đó đều bị sét đánh chết tươi!
Nhận định: Đã dâm vợ lại còn giết chồng, thiên lý khó dung, oan hồn chẳng
nguôi cừu hận được! Vì thế, tuy con người mưu mô xảo quyệt, trời lẫn thần đều
 Quỳnh Nhai là một vịnh biển tại đảo Hải Nam.
báo ứng. Thử xem hạng người như vậy mà được bình yên không bị báo ứng, trăm
kẻ chẳng được một, cũng chẳng khác gì vung đao tự giết mình vậy!
* Đời Minh, Lục Trọng Tích sanh ra đã có tài lạ. Khi mười bảy tuổi, theo
thầy là ông Khâu lên sống ở kinh đô. Nhà đối diện có một cô gái rất đẹp. Hai
người lén ngấp nghé nhau, đều động tâm. Thầy xui: “Thành Hoàng ở kinh đô
thiêng nhất, ngươi hãy thử cầu khẩn, may ra được thỏa nguyện”, bèn đến cầu khấn.
Đêm ấy, chàng Lục mộng thấy mình và thầy đều bị Thành Hoàng truy bắt, quở
trách nặng nề. [Thành Hoàng] sai thuộc hạ tra xét tài lộc, địa vị. Kiểm sổ sách,
thấy dưới tên họ Lục có ghi chú: “Đỗ Trạng Nguyên năm Giáp Tuất”, còn dưới
tên họ Khâu chẳng có gì hết. Thần bảo: “Ta sẽ tấu sớ lên Thượng Đế, gạt bỏ tên
ngươi khỏi sổ, rút ruột họ Khâu”. Vừa mới tỉnh mộng, thằng hầu trong quán trọ
gõ cửa, báo tin: “Khâu tiên sinh bị nghẽn ruột, sa đì chết mất rồi”. Sau này, Trọng
Tích nghèo hèn suốt đời!
* Đời Thanh, huyện lệnh huyện Túc Tùng là Châu Duy Cao, làm giám khảo
trường thi khoa Kỷ Dậu ở Giang Nam, chấm đậu một quyển bài thi. Đến đêm,
nằm mộng, thấy có người nói: “Người này ẩn giấu điều ác, chẳng thể cho đậu
được!” Dùng tay viết một chữ Dâm cho ông Châu thấy. Hỏi tường tận nguyên cớ,
người ấy không đáp. Hôm sau, ông Châu quên bẵng giấc mộng trên đây, đem
quyển văn ấy trình lên. Quan chủ khảo hết sức tán thưởng ý tứ mới lạ. [Quan chủ
khảo] bỗng lấy bút xóa đi hai chữ “hiểm trở”trong bài văn. Ông Châu bẩm:
“Trong quyển bài thi, những chữ giống như vậy không ít, có lẽ chẳng nên xóa đi”.
Quan chủ khảo cũng hối tiếc, bảo ông Châu tẩy nét đã gạch xóa. Đến khi xóa vết
gạch bỏ, dấu mực đã thấm xuống mấy tầng giấy. Ông bỗng nhớ lại giấc mộng
trước đó, bèn loại bỏ bài văn đó. Nhưng rốt cuộc ông Châu vẫn yêu mến bài văn
ấy, đặc biệt giữ lại bài viết ấy, nhưng không biết tên họ [người viết bài ấy]. Viên
giám khảo thuộc phòng ông Châu là Ngô Lý Thanh đã kể chuyện này.
* Trương Bảo làm tri phủ ở Thành Đô, thấy vợ của Lý Úy ở Hoa Dương xinh
đẹp, muốn tư thông. Khéo sao, Lý Úy do tham ô bị bại lộ; ông Bảo thừa cơ đàn
hặc, khiến cho ông Lý bị đày xuống Lãnh Nam. Ông ta chết trên đường đi. Ông
Bảo mua chuộc mẹ Lý Úy để xin cưới, hết sức vui thú. Bỗng dưng vợ bị bệnh,
thấy Lý Úy đứng bên cạnh, bèn chết. Ông Bảo cũng nhiễm bệnh, mộng thấy vợ
nói: “Lý Úy đã thưa lên Thượng Đế, sẽ bắt ông trong sớm tối, hãy nên ẩn nấp cho
 Nguyên văn “Châu công bổn phòng”. Theo lệ thi cử xưa, nhất là trong các kỳ thi Hương
và thi Hội, do số thí sinh đông đảo, các giám khảo (thường gọi là “khảo quan”) phải chia
thành nhiều phòng để chấm các quyển văn (bài thi thường gọi là đối sách hoặc văn sách
được viết vào một quyển giấy trắng). Phòng chấm thi của một vị quan sẽ gọi là “bổn
phòng”. Mỗi vị khảo quan lại có những viên quan chức vụ nhỏ hơn phụ tá. Do ông Ngô Lý
Thanh phụ tá ông Châu Duy Cao, nên gọi là “Châu công bổn phòng”.
kín”. Trương Bảo tỉnh giấc, ghi nhớ trong lòng. Một tối đang ngồi, thấy trước dinh
có người mặc áo, có tay áo màu hồng vẫy gọi. Ông ta nghĩ là vợ của Lý Úy bèn
vội vàng chạy tới, thì ra Lý Úy. Lý Úy ôm chặt Trương Bảo đấm đá, [Trương
Bảo] miệng mũi đều xuất huyết mà chết.
* Đời Thanh, tường sanh họ Uông ở Phượng Dương, trong nhà có một cái ao
nhỏ trồng sen, còn chưa trổ hoa. Năm Kỷ Dậu (1669) thời Khang Hy, khi sắp đi
thi, bỗng thấy trong ao nở một cặp hoa sen chung cuống. Cha mẹ hết sức vui
mừng. Ban đêm, chàng Uông dùng rượu quyến rũ, nài ép đứa tớ gái, vợ chẳng
ngăn cản, bèn tư thông với nó. Sáng dậy, nhìn hoa đã thấy gãy nát. Cha mẹ hết
sức tiếc hận. Uông sinh mộng thấy yết kiến Văn Xương [Đế Quân], thấy tên mình
được ghi trên bảng trời, bỗng bị Đế Quân gạch bỏ. Ứa nước mắt lạy lục, van nài,
ba lượt bị gạt xuống. Trong tâm biết là chuyện chẳng lành, [nhưng kỳ thi đã tới
bèn] gấp rút lên đường. Khi ấy, quan giám khảo Giản Văn Tông chấm bài rất công
bằng. Theo hạn ngạch từ trước, phủ Phượng Dương được chọn đậu ba người, tham
dự kỳ thi lần này chỉ có ba người, riêng mình chàng Uông thi rớt! Thi cả ba lần
đều trượt, ứa nước mắt trở về.
* Đời Minh, tường sanh họ Vương ở ấp Ngọc Sơn lấy vợ ngay trong lúc còn
làm đám tang cho mẹ. Ước định hết kỳ cúng thất sẽ làm lễ động phòng. Chàng
Vương ngủ bên linh cữu, còn vợ ngủ trong phòng. Ban đêm, nghe tiếng gõ cửa,
đứa tớ gái thưa “chàng rể đã tới”, vợ rước vào, cùng ngủ với nhau. Nghe trống
điểm canh năm, [người ấy] bèn rời đi, bảo: “Sợ người ngoài biết, trách tội ta bất
hiếu”. Được mấy hôm, [người ấy] lại hỏi đến của hồi môn. Vợ đáp: “Ngoài quần
áo sắp sẵn mang theo, còn có tám mươi lạng bạc, cùng với trâm vàng, bông tai
đều đặt trong chiếc rương nhỏ”. Trống canh năm vừa điểm, người ấy bèn ôm đi,
không giao trả lại. Đợi đến lúc hết thất, chàng Vương bày tiệc rượu làm lễ thành
hôn, nói chuyện với nhau, vợ mới biết đã bị kẻ giặc lừa gạt, giậm chân, đau đớn
khóc rống, thề chẳng muốn sống nữa. Trở về thưa chuyện cùng cha mẹ rồi treo cổ
chết. Tới khi an táng, chàng Vương đưa quan tài tới mộ, bỗng sấm chớp giao nhau
giáng xuống, chụp lấy một người đưa tới quỳ trước quan tài, thì ra là anh họ của
chàng Vương, hai tay ôm vòng vàng và bạc trắng, vẫn quỳ tuy đã bị sét đánh chết,
thi thể tả tơi. Cả ấp kinh hãi. Đấy là chuyện xảy ra vào năm Chánh Đức thứ chín
(1514).
* Trong niên hiệu Thuận Trị đời Thanh, có người họ Tiền ở huyện Gia Hưng,
khi chưa đi thi, ngồi dạy học tại nhà của một người nọ là dân trong làng. [Người
ấy] có cô con gái mười bảy tuổi. Nhằm lễ Thanh Minh, cả nhà đều đi tảo mộ,
 Chánh Đức là niên hiệu của Minh Vũ Tông (Châu Hậu Chiếu), vua thứ mười một nhà
Minh.
cúng bái, chỉ để cô ta ở lại trông nhà. Họ Tiền bèn lén lút tằng tịu với cô ta. Về
sau, bụng cô to dần. Cha mẹ cật vấn, cô ta bèn thú thật. Cha mẹ cô thấy họ Tiền
còn chưa cưới, muốn gả tống gả tháo cô gái ấy đi để bưng bít chuyện xấu ấy; do
vậy, tìm đến họ Tiền để bàn bạc cặn kẽ. Họ Tiền cố ý ra vẻ giận dữ, bảo: “Con
gái mấy người không ra gì, muốn làm nhục kẻ khác hả?” Cha mẹ cô ta căm phẫn,
quay lại chửi bới cô. Cô gái ấy bèn treo cổ tự tử. Về sau, họ Tiền thường mộng
thấy cô ta ôm con đứng trước mặt. Sau khi thi đậu, làm quan coi án ở Giang Ninh.
Khi đó, do vùng Trấn Giang biến loạn, [quan trên] giao những kẻ theo giặc làm
loạn cho họ Tiền thẩm tra. [Về sau], triều đình do xét thấy họ Tiền ăn hối lộ [tha
bổng cho những kẻ phản loạn đó], phán họ Tiền chịu án treo cổ. Ngay trong ngày
[triều đình] xuống lệnh thi hành án, họ Tiền lại mộng thấy cô gái ấy dùng mảnh
khăn hồng buộc cổ anh ta. Ngày hôm sau, họ Tiền liền bị tử hình.
* Thư sinh nọ ở Sơn Đông, đêm trước ngày vào trường thi, đứa đầy tớ bỗng
chết, bèn tạm để xác nó trong một căn phòng. Đến khi anh ta ra khỏi trường thi,
đứa đầy tớ đã tỉnh lại, kể: “Hôm qua, tôi theo chủ nhân vào trường thi, nghe nói
gia chủ đã được ghi tên đỗ hạng mấy. Lại thấy [trước lều thi của] những người thi
đỗ đều có cờ hồng, gia chủ cũng có”. Thư sinh hết sức mừng rỡ. Đứa đầy tớ xin
gia chủ sau khi thi đỗ, sẽ cưới vợ cho nó. Thư sinh nói: “Tao sẽ cưới cho mày đứa
con gái ở nhà đối diện, có được hay không?” Đứa đầy tớ khiêm nhượng, thưa:
“Không dám”. Thư sinh nói: “Sau khi tao đã đậu, còn sợ gì họ chẳng dâng lên
chứ?” Trong vòng thi thứ nhất, đứa đầy tớ lại chết, khi sống lại, sắc mặt lộ vẻ
giận, nói: “Chủ nhân không đậu nổi đâu!” Thư sinh kinh hãi, hỏi nguyên cớ. Đầy
tớ thưa: “Tôi thấy quan phủ điểm danh tới tên chủ nhân, bỗng nói: ‘Gã ấy chưa
đậu mà đã ngấp nghé tạo ác!’ Sai người sửa lại, thay tên họ Triệu vào! Trước tên
của chủ nhân đã không thấy có cờ hồng nữa”. Thư sinh nửa tin, nửa ngờ. Khi yết
bảng, quả nhiên họ Triệu đỗ hạng thứ mấy [đúng như lời đứa đầy tớ đã nói]. [Về
sau, hỏi ra mới biết] khi các vị giám khảo thâu nhận quyển văn trình lên chủ khảo,
bảy bài văn sách của chàng thư sinh ấy đều trọn vẹn. Nào ngờ khi chấm bài, các
quyển văn của chàng ta trong vòng thi thứ ba đều bị tàn lửa đèn đốt mất nửa trang,
không thể trình lên chánh chủ khảo được. Do vậy, bèn lấy những quyển lạc đề
của chàng bù vào. Chàng thư sinh ấy buồn rầu, hối hận chẳng thôi! Chuyện này
do chính tiên sinh Tống Lệ Thường ở Lai Dương kể lại, do ông ta cùng làng với
chàng thư sinh ấy, nên không nói rõ tên.
* Đời Minh, có tiệm nhuộm ở huyện Nghi Hưng, [chủ nhân là] một góa phụ
xinh đẹp tột bậc. Gã lái buôn gỗ trông thấy bèn yêu mến, dụ dỗ đủ kiểu, rốt cuộc
vẫn không thể chinh phục được. Vì thế, lập mưu ban đêm quăng mấy cây gỗ vào
nhà bà ta. Hôm sau, thưa bà ta can tội trộm cắp. Lại hối lộ quan lại trên dưới,
khiến cho bà ta hết sức khốn quẫn, nhục nhã, mong bà ta sẽ phải theo mình. Trong
nhà, bà ta thành kính thờ Triệu Huyền Đàn, bèn khóc lóc bẩm cáo. Đến đêm,
mộng thấy thần dạy: “Đã sai hắc hổ rồi!” Không đầy mấy ngày, gã thương gia
vào núi mua gỗ, từ trong rừng cây, một con cọp đen xông ra, cắn đứt đầu đem đi!
* Đời Thanh, tường sanh họ Chi ở Gia Thiện, đi thi Hương vào mùa Thu
năm Kỷ Dậu (1669) triều Khang Hy trở về, nói với người bạn họ Cố: “Tôi thần
hồn hoảng hốt, dường như bị quỷ quấy nhiễu, muốn cậy vị Tăng nọ để sám hối
oan nghiệt xưa kia”. Ông Cố nói “rất nên”, mời vị Tăng cùng đến thăm ông Chi.
Ông Chi chợt phát cuồng, nói: “Ta ngậm oan ba đời, nay mới hại được ngươi!”
Vị tăng hỏi: “Có thù hận gì?” Trả lời: “Đời trước ta là thuộc tướng của nó, nó là
chủ tướng. Nó thuộc họ Diêu là họ có công lao hiển hách trong triều. Nó thấy vợ
ta trẻ tuổi, xinh đẹp, sai ta đem quân xuất chinh, bị vây hãm trong tử địa để mưu
chiếm đoạt vợ ta. Vợ tự vẫn. Một nhà cốt nhục chia lìa. Sau đó, nó chết vì chuyện
trung nghĩa, ta chưa thể báo thù được. Đời sau đó, nó là bậc cao tăng, lại chẳng
báo thù được. Đời thứ ba nó làm Tể Tướng, tận hết trách nhiệm, thần phước lộc
bảo vệ nó, ta vẫn không trả thù được! Đời này, lẽ ra nó đỗ đạt. [Đời này] ta đã đợi
suốt ba mươi năm, do gần đây nó phạm dâm nghiệp, bị xóa tên trong sổ Văn
Xương, nên ta mới ra tay được”. Khi nói, căm hận, giận dữ không thôi. Ông Cố
bảo: “Oán hãy nên cởi, chớ nên buộc”. Oan hồn đáp: “Nỗi hận của ta khó thể giải
trừ được! Chẳng thể dung tha nó”. Rốt cuộc, ông Chi điên cuồng mà chết.
* Thư sinh nọ ở Quý Châu đi thi nhiều lần chẳng đậu, cầu khẩn Trương chân
nhân dâng sớ xin xem thiên bảng. Thần phê rằng: “Mạng người này đáng lẽ đỗ
đạt, do lén lút với người thím nên bị gạt bỏ”. [Trương chân nhân] xuất định nói
với thư sinh ấy. Thư sinh bảo không có chuyện đó, bèn dâng điệp biện bạch. Thần
lại phê rằng: “Tuy chẳng có chuyện ấy, nhưng thật sự có cái tâm ấy”. Thư sinh
hối hận chẳng kịp, ấy là vì thuở trẻ, thấy bà thím xinh đẹp, ngẫu nhiên dấy động
một niệm mà ra!
* Nghiêm Vũ thuở trẻ có hàng xóm là một vị tướng lãnh trong quân đội. Họ
Nghiêm lén thấy con gái ông ta xinh đẹp, bèn dùng trăm kế dụ dỗ theo mình bỏ
trốn. Vị tướng quân vào cung tâu lên vua. Vua hạ chiếu truy bắt họ. Nghiêm Vũ
 Triệu Huyền Đàn (趙玄壇) là một vị thần của Đạo giáo. Theo truyền thuyết, ông ta tên là
Triệu Lương, tự là Công Minh, là một trong bốn vị đại hộ pháp nguyên soái của Đạo giáo,
nên còn gọi là Huyền Đàn Nguyên Soái (Huyền Đàn có nghĩa là trai đàn, mang ý nghĩa hộ
pháp). Ông còn được coi là Vũ Tài Thần vì thống lãnh các thuộc hạ là Chiêu Bảo Thiên Tôn,
Nạp Trân Thiên Tôn, Chiêu Tài Sứ Giả, và Lợi Thị Thiên Quan, được gọi chung là Ngũ Lộ
Tài Thần. Theo truyền thuyết, ông là người sống trong núi Chung Nam, đã ở ẩn trong núi
từ đời Tần. Khi Trương Đạo Lăng (sáng tổ Thiên Sư Giáo) tu hành tại Hạc Minh Sơn, đã
được Triệu Huyền Đàn thâu làm đồ đệ, truyền thuật luyện đan, và các loại bùa phép khác.
Về sau, Trương Đạo Lăng truyền đạo, lập ra Đạo giáo (thường gọi là Chánh Nhất Đạo, hoặc
Thiên Sư Giáo, là một trong những phái Đạo giáo đầu tiên). Triệu Huyền Đàn thường được
mô tả dưới diện mạo mặt đen, râu dài, tay cầm roi sắt, cưỡi hắc hổ.
sợ tội, thắt cổ cho nàng ta chết để hủy diệt tung tích. Đến khi mắc bệnh ở đất Thục
(Tứ Xuyên), thấy cô ta đến đòi mạng, bảo: “Thiếp tuy mất nết, chẳng hề phụ
chàng. Thế mà bị chàng giết chết, đúng là kẻ tàn nhẫn. Thiếp đã tố cáo lên Thượng
Đế, kỳ hạn là ngày mai!” Quả nhiên, rạng đông hôm sau, họ Nghiêm chết ngắc!
* Ở đất Giang Ninh có một sai dịch họ Lưu. Có một phạm nhân mắc tội ngồi
tù, cần phải dùng hơn mười lạng bạc để chuộc tội thì mới được thả về. Phạm nhân
cậy họ Lưu đến nhà mình bảo vợ bán con gái để chuộc tội. Họ Lưu liền đến bàn
bạc với vợ người ấy. Do bà vợ khá xinh đẹp, họ Lưu muốn gian dâm. Bà vợ vì
thấy tánh mạng của chồng cần phải nhờ cậy gã này che chở, nên miễn cưỡng thuận
theo. Sau đó, bán con gái được hai mươi lạng bạc, giao hết cho họ Lưu làm chi
phí chuộc tội. Họ Lưu cầm tiền tự xài, chẳng giao nạp. Người vợ cứ nghĩ bạc đã
nộp cho quan, chắc không lâu chồng sẽ trở về. Đợi mấy hôm, chẳng có tin tức gì,
bèn cậy một người trong họ dò hỏi, nhân đó, [người ấy] kể rõ nguyên do với phạm
nhân. Phạm nhân biết chuyện, gào khóc rồi chết. Mười ngày sau, sai dịch họ Lưu
hết rét lại sốt, tự nói: “Người đó đã kiện ta lên thần Đông Nhạc, tức khắc phải bị
thẩm tra”. Sau đấy, nằm gục xuống chiếu, rên siết ai oán, tự nói: “Đáng chết!”
Rồi lại nói: “Do ta quen nói dối, phải dùng móc sắt kéo lưỡi”. Trong khoảnh khắc,
lưỡi thè ra mấy tấc, tự cắn cho tan nát, huyết nhục đầm đìa mà chết.
* Họ Dương ở Túc Tùng là người có tiếng tăm trong trường, thờ phụng Quan
Đế hết sức thành kính. Ban đêm, mộng thấy Quan Đế ban cho cái ấn vuông, bèn
nghĩ ắt sẽ thi đỗ. Sau đó, ở dưới lầu, gian dâm con gái nhà lành. Vào trường thi
xong, trở về nhà, lại mộng thấy Quan Đế đòi lại ấn. Họ Dương nói: “Ấn đã cho
tôi rồi, sao lại đòi lấy?” Quan Đế nói: “Không chỉ là đòi ấn, mà còn đòi mạng
mày nữa! Chuyện dưới lầu đó, vào tháng đó, mày an lòng chưa?” Chưa đầy một
tháng, cha con bọn họ đều chết ráo!
* Trong niên hiệu Chánh Đức đời Minh, Phù tú tài ở Tứ Minh sau khi đã
chết, báo mộng cho con: “Khi còn sống, ta đã phạm luật cấm về gian dâm. Ngày
mai sẽ đầu thai làm con chó trong nhà Tạ ngũ lang ở phía Nam thành, hãy mau
gấp làm chuyện lành, sám hối cho ta”. Nói xong, một con quỷ buộc cổ lôi đi. Một
quỷ tốt khác lấy tấm da trắng phủ lên đầu ông ta. Ông ta khóc lóc bi thương, tập
tễnh ra đi. Đứa con kinh hãi tỉnh mộng. Ngày hôm sau, nhà họ Tạ quả nhiên có
một con chó được sanh ra, toàn thân trắng muốt. Đứa con xin đổi lấy đem về nhà,
vì cha rộng làm các việc lành. Năm sáu năm sau, chó bỏ ăn mà chết. Hơn tháng
sau, đứa a hoàn bé trong nhà, bỗng ngồi giữa nhà, nói to, giống như dáng vẻ của
Phù tú tài, gọi người nhà đến bảo: “Ta thật sự chưa từng phạm dâm. Do lúc mười
tám tuổi, đi qua phòng chị dâu. Chị dâu vừa mới rửa sạch trang điểm, làm rớt cái
nhẫn xuống đất, sai ta nhặt lên. Do vậy, ta hứng tình. Về sau, [chị dâu] lại thường
cùng ta cười nói, suýt nữa phá sạch lễ nghĩa! Rốt cuộc chị dâu bị bệnh chết, ta
cảm thấy tinh thần rối loạn. Năm sau cũng chết. Sau khi chết, có quỷ trói dẫn đến
dưới sân một tòa quan phủ, hai tay chống xuống đất, đã thành hình dạng chó. Nay
nhờ ngươi làm việc thiện có công, đã sám trừ sạch nỗi oan nghiệt trước kia, sẽ
sanh làm con thứ năm trong nhà thầy lang họ Triệu ở Sơn Đông. Ta trở về nhà từ
biệt”. Nói xong, đứa tiểu a hoàn ngã lăn ra đất, tỉnh lại.
* Họ Lữ ở Vân Gian là con nhà thế gia, mặc sức dâm dục. Tớ gái, gia nhân
đều bị ông ta thường ô nhục đến nỗi ngã bệnh. Về sau, con cái trai gái đều chết
sạch. Vì chuyện trong giới quan trường mà bị tan nhà nát cửa, nhiều lần bị hạ
ngục, tra tấn. Tuổi trung niên chịu đủ mọi nỗi khốn khổ tột bậc, lạnh không có
áo, đói chẳng có ăn, nhà không có được cái nóc rách, bệnh tật không có người
chăm sóc. Đến lúc chết, quan tài lẫn vải liệm đều không có, giòi bọ khắp thân,
người trông thấy không ai chẳng kinh sợ!
* Đời Thanh, trong khoa thi năm Quý Dậu (1693) triều Khang Hy, một lẫm
sanh ở Tùng Giang vào trường thi thứ nhất, vừa nhận quyển thi, bỗng thấy một
con quỷ theo vào trường thi, khóc lóc ầm ĩ suốt đêm, cả trường thi đều bất an.
Đến chiều hôm sau, [lẫm sanh ấy] vừa viết xong bản nháp bài văn sách cho vòng
thi thứ ba, quỷ xông vào nắm cổ [anh ta]. Vì thế, kêu gào những các thí sinh ở các
lều gần đó cứu mạng. [Anh ta] khóc lóc, nói: “Năm nọ tôi đến đất Sở (Hồ Nam),
do ưa thích một người con gái, vờ hứa hẹn sẽ lấy cô ta làm vợ. Cô ta vui thích bèn
tư thông, lại còn tặng tiền bạc cho tôi. Dẫn về nhà, vợ tôi chẳng dung, bị chết.
Nay cô ta đã tới, tôi không thể sống nổi nữa”. Các thí sinh ở lều bên cạnh mềm
mỏng an ủi. Một lúc sau, nghe lẫm sanh ở trong lều van lơn xin tha mạng. Lâu
sau, tiếng kêu im bặt. Họ bèn gọi người trông nom lều thi đốt đuốc, thấy lẫm sanh
ấy dùng sợi tơ đỏ [buộc ở đuôi bút] để treo bút, tự buộc vào cổ mình, đã nghẹt
thở mà chết.
Nhận định: Sách Nam Lăng Đơn Quế Tịch ghi: “Do tư thông với một người
nữ, ắt sẽ đến nỗi vào trường thi mà chết. Lại còn ắt khiến gã ấy tự nói nguyên cớ
 Theo lề lối thi cử thuở ấy, thí sinh phải nộp những quyển giấy trắng đã đóng bìa theo
đúng quy định, trang đầu viết tên tuổi, quê quán v.v… Nhân viên trường thi thu lấy, kiểm
xem có đúng quy định hay không, sau đó sẽ đóng dấu vào chỗ giáp trang. Đến hôm thi, sẽ
phát ra, trả lại cho thí sinh viết bài thi vào đó. Trước khi nộp quyển thi, thí sinh phải kiểm
lại, ghi rõ những chữ nào đã sửa vì bị viết sai, thiếu nét, bao nhiêu chữ vì phạm húy mà
viết bớt nét v.v… để khi giám khảo chấm bài sẽ trình lên chủ khảo, chứng minh bài thi ấy
do chính thí sinh viết, không có chuyện tráo bài hay ngụy tạo, cũng như đảm bảo không
có chuyện giám khảo vì cảm tình riêng mà sửa chữ trong bài văn. Quyển thi phải lành lặn,
không được rách bìa, sứt trang, không được thiếu trang v.v…
 Thuở trước, bút lông dùng xong thường nhúng nước cho sạch hết mực, rồi treo lên giá
bút cho ráo nước.
gây ra cái chết. Lại còn ắt khiến cho sĩ tử cả trường đều biết nguyên do bị chết.
Trời cao hiển thị sự báo ứng do dâm, răn nhắc tột bậc sâu xa, sát sao vậy”.
* Vào đời Minh, tại Kinh Khê có hai người chơi với nhau khá thân. Một
người giàu có, người kia nghèo túng. Do vợ người nghèo xinh đẹp, gã giàu liền
lập mưu, bảo bạn: “Có một nhà giàu nọ, anh có thể đến đó làm thuê”. [Anh nghèo
nghe lời, cùng bạn] chuẩn bị thuyền để chở theo vợ cùng đi. Đến Chỉ sơn, [gã
giàu] bảo: “Để vợ anh ở lại trông thuyền, tôi với anh đi trước hỏi thăm”. Dẫn bạn
vào rừng, rút rìu giắt sẵn sau lưng chém chết. Hắn giả vờ khóc lóc, xuống núi, bảo
vợ bạn: “Chồng chị bị cọp vồ chết rồi”. Người vợ khóc ầm lên, theo hắn lên núi
tìm xác chồng. Hắn dẫn vào chỗ núi sâu, ôm chặt lấy cô ta, đòi thỏa dâm. Người
vợ không chịu. Chợt có cọp xông ra, cắn gã giàu lôi đi. Người vợ kinh hãi bỏ
chạy, cho là chồng đã gởi thây trong miệng cọp rồi, buồn, hận khôn khuây! Bỗng
thấy một người từ xa khóc lóc đi tới, [hóa ra] người vừa tới ấy chính là chồng
mình! Đôi bên kể lể sự tình, chuyển buồn thành vui, quay về.
* Ở Dư Hàng có người họ Trương sang Kim Lăng buôn bán, ở trong quán
trọ. Có người đàn bà nói mình sống gần đó, tằng tịu với họ Trương. Lâu sau, họ
Trương nhận thấy láng giềng sống quanh đó không có người đàn bà ấy. Do nghi
ngờ bèn cật vấn, người đàn bà đáp: “Thật ra tôi có chuyện cần nhờ vả, tôi chẳng
phải là người. Có một người tên là Dương Xu chẳng phải là người cùng làng với
ông hay sao?” “Đúng vậy!” Người đàn bà giậm chân, nghiến răng nói: “Thằng đó
bội bạc lắm! Thiếp chính là kỹ nữ, thuở trẻ dan díu với thằng Dương. Nó hết sức
chiều chuộng thiếp, không gì chẳng chăm sóc hết mực, ước hẹn, thề nguyền sẽ
đón thiếp về nhà, sống chết cùng nhau. Thiếp trút hết của cải dành dụm đưa cho
nó, bền lòng giữ mình theo lời hẹn. Đã lâu mà chẳng có tăm hơi gì, nghe nói nó
đã lấy người khác rồi! Vì thế, nuốt hận mà chết. Quán trọ này chính là chỗ ở cũ
của thiếp. Muốn đi theo thuyền của ông để xem vợ mới của thằng Dương như thế
nào?’ Ông Trương đồng ý. Đã đến nơi, bà ta từ biệt ông Trương, tìm tới nhà họ
Dương. Do mừng sinh nhật, họ Dương tấu nhạc, mở tiệc đãi đằng khách khứa,
bỗng chết đột ngột. Bà vợ do hắn cưới cũng mắc bệnh nguy kịch gần chết. Ông
Trương nghe chuyện, hết sức kinh hãi!
* Trương An Quốc có tài văn chương, nhưng hạnh kiểm tệ hại. Gian dâm
một cô gái hàng xóm, khiến cho cô ấy chết ngang trái. Về sau, hắn đi thi. Quan
chủ khảo thích thú văn tài, toan chọn hắn đỗ đầu. Chợt nghe trên không trung có
tiếng quát: “Há có kẻ dâm đãng hại người lại được đỗ đầu bảng à?” Quan chánh
chủ khảo bỗng té nhào xuống đất, đến khi tỉnh lại, đứng lên thì thấy quyển bài thi
 Chỉ Sơn là một quả núi thuộc huyện Trường Sa, tỉnh Hồ Nam.
ấy đã bị xé rách tan nát. Sau khi yết bảng, quan chánh chủ khảo bèn gọi An Quốc
kể chuyện này, An Quốc hổ thẹn mà chết.
* Chàng họ La ở Kiến Xương do nhà nghèo, chẳng thể cưới vợ. Mẹ anh ta
bèn cải giá với ông Giang để có tiền cưới Chương thị. Chàng La thấy mẹ [hy sinh
như vậy], chẳng nỡ lòng ngủ chung với vợ. Chương thị dò biết bèn tháo trâm cài,
bông tai, quần áo đưa cho chồng chuộc mẹ về. Chồng vui mừng, chạy đến nói với
mẹ. Do trời đã tối, bèn ngủ lại. Nào ngờ con trai vợ trước của ông Giang là Giang
Thật đã lén nghe được, trong đêm giả vờ là chàng La gõ cửa, xông vào nhà, vơ
vét mọi vật, lại còn đòi ân ái. Chương thị không biết kẻ đó là giả, [Giang Thật]
bèn ôm hết [của cải] bỏ đi. Cho đến bình minh, chồng quay về, Chương thị mới
biết đã mắc lừa, xấu hổ, ân hận, bèn treo cổ chết. Chồng sắm sửa quan tài, đồ
liệm, đưa linh cữu vợ ra ngoại thành. Chợt sấm sét cùng nhau giáng xuống, sét
đánh chết một người, tay còn ôm trâm, bông tai, quần áo, quỳ trước quan tài. Lưng
viết bốn chữ: “Gian tặc Giang Thật”. Quan tài gỗ vỡ vụn, Chương thị đứng bên
đường, thấy chồng bèn hỏi: “Chuyện này là sao?” Thuật rõ mọi chuyện xong, vợ
chồng dìu nhau trở về. Cha ghẻ là Giang Triều cũng cảm động khóc lóc. Do vậy,
mời vợ chồng chàng La về ở chung.
* Đời Minh, ở Tấn Giang có Hứa Triệu Hinh, đỗ Cử Nhân năm Mậu Ngọ.
Trên đường đến bái yết vị chủ khảo của mình, ngẫu nhiên đi qua một ni am. Do
mê thích một ni cô trẻ tuổi, bèn cậy thế cưỡng bức làm nhục cô ta. Ngày hôm sau,
bỗng tự cắn lưỡi đứt làm hai đoạn mà chết.
* Gã X… là người ở Diên Sơn, mê thích sắc đẹp của vợ người hàng xóm,
dụ dỗ nhưng cô ta không thuận theo. Nhằm lúc chồng cô ta ngã bệnh, trời đổ mưa
to, sấm sét ầm ĩ, bèn khoác áo hoa có hai cánh diều, nhảy vào nhà hàng xóm,
vung chùy sắt giết chết [người chồng], rồi lại nhảy tường trở ra. Mọi người đều
tưởng là sét đánh chết người chồng. Sau đấy, gã đó cậy mai mối xin cưới [người
vợ góa]. Người vợ do nghèo túng bèn cải giá, vợ chồng ân ái hết mực. Một hôm,
vợ sắp xếp rương, thắc mắc quần áo may kiểu gì mà lạ thế. Chồng nhân đó cười
cợt, nói rõ chuyện. Vợ giả vờ cười nói, đợi lúc chồng đi vắng, bèn ôm áo cánh
diều lên báo quan. Quan phán tội treo cổ. Ngày xử giảo, sấm sét ầm ĩ, [gã đó] đầu
một nơi, thân một nẻo, tứ chi đứt lìa.
* Tường sanh Quách Hanh ở Giang Ninh, năm Kỷ Mão vào trường thi. Khi
chưa yết bảng, người bạn là Dương sinh nói: “Gần đây, tôi làm phán quan cho âm
phủ, biết ông đáng lẽ đậu hạng năm mươi bảy. Trong nhà ông có một đứa tớ gái,
bị ông cưỡng ép làm tiểu thiếp. Nó uất ức nên đã chết. Nó đã nhiều lần tố cáo ông
[dưới cõi âm]. Vì lẽ này, tên ông đã bị gạt bỏ”. Chàng Quách thoạt nghe, không
tin, đến chừng nhận lại quyển thi, [mới thấy] giám khảo đã xếp [bài văn của mình]
vào loại trình lên chủ khảo, mới hối hận vô cùng! Quách Hanh cả đời trung hậu,
chỉ vì vô ý chuyện này, cả đời thất vọng!
Nhận định: Xét theo Công Quá Cách, “ép tớ gái làm thiếp, phạm ba mươi
lỗi”. Đó là đặc biệt nói theo Lý, chứ nếu xét theo tình, châm chước thế, sẽ là tội
lỗi vô cùng! Bởi lẽ, nam nữ kết hôn, dẫu nghèo hèn đều mong xứng nguyện.
Cưỡng ép trở thành thiếp, tức là đã trái với ý nguyện của họ, mà cũng là chuyện
khó chịu đựng nhất. Thường có những trường hợp vợ trẻ đẹp phải hầu hạ chồng
già khú đế, hoặc người dịu dàng, mềm mỏng gặp [vợ cả] hung tợn, ghen tuông,
sẽ ngậm hờn, nuốt oán, uất ức mong chết đi cho rảnh! Kẻ gặp những nỗi khổ ấy,
thật là đáng thương! Suy xét nguồn cơn, đều là do một kẻ không thể chế ngự lòng
dục mà ra. Trong đám thê thiếp, nói xấu, chửi bới, tranh chấp với nhau, chuyện
trong chốn buồng the, xấu xa, nhơ bẩn không thể che giấu, tai hoạn chẳng phải là
một mối! Con người nếu chẳng phải là chuyện muôn phần bất đắc dĩ, hãy thận
trọng đừng tạo nỗi oan nghiệt vô cùng ấy!
* Vương Cần Chánh ở Trừ Dương thông gian với người đàn bà hàng xóm,
đã ước hẹn cùng nhau bỏ trốn. Do vậy, bà ta bèn giết chồng. Cần Chánh nghe
chuyện, sợ quá, liền một mình trốn tới huyện Giang Sơn cách đó bảy mươi dặm,
ngỡ là đã có thể thoát họa. Đói bụng, vào quán cơm. Chủ quán dọn cơm cho hai
người ăn. Cần Chánh hỏi nguyên do. Chủ quán bảo: “Chẳng lẽ người đầu bù tóc
rối đi theo ông không phải là người ư?” Cần Chánh kinh hãi, biết là oán quỷ đi
theo mình, liền đến cửa quan tự thú. Nam nữ đều phải đền tội.
* Ở Dự Chương có một cặp song sanh, tướng mạo và tiếng nói giống hệt như
nhau. Từ lúc còn ẵm ngửa cho tới lúc ba mươi tuổi, những chuyện gặp gỡ, được
mất đều y hệt như nhau. Lúc ba mươi mốt tuổi, do đi thi, anh em lên tỉnh. Một
phụ nữ ở gần đó góa chồng, xinh đẹp, quyến rũ người anh. Người anh nghiêm mặt
cự tuyệt, lại còn đem chuyện ấy răn nhắc đứa em. Đứa em giả vờ vâng dạ, nhưng
lén lút gian díu với người đàn bà ấy. Thoạt đầu, bà ta chẳng biết đó là người em.
Đôi bên tình cảm sâu đậm; do vậy, ước hẹn với bà ta: “Nếu ta thi đậu, ắt sẽ cưới
nàng”. Đến khi yết bảng, anh đậu, em rớt. Người em lại gạt bà ta: “Đợi ta đỗ ông
nghè xong sẽ cưới nàng”. Lại còn than thở thiếu hụt tiền chi dụng. Bà ta dốc hết
tiền bạc dành dụm trao cho. Mùa Xuân, người anh đỗ kỳ thi Đình, bà ta sớm chiều
mong ngóng, chẳng thấy tin tức gì, uất ức thành bệnh. Ngầm gởi thư cho người
anh, [không lâu sau] bà ta chết. Người anh nhận được thư, kinh hãi, vặn hỏi đứa
em. Người em cúi đầu thừa nhận đã lừa tình. Năm sau, con trai của người em bị
chết, con người anh không sao. Người em khóc lóc không ngừng, hai mắt bỗng
mù hẳn! Không lâu sau cũng chết. Người anh quyền cao tước trọng, đông con,
lắm cháu, có thể nói là hưởng phước trọn vẹn.
Nhận định: Con người thường là khi họa hoạn xảy tới, chẳng thể đổ thừa hết
cho số mạng được! Hãy nên kinh sợ, tự xét hành vi trong thường nhật xem đã trót
tạo nỗi oan nghiệt nào mà dẫn đến [nông nỗi] hiện thời! Tự trách sâu xa, sửa lỗi
đổi mới, hòng có thể vãn hồi sự trút giận của thần minh. Nếu không, cũng sẽ giống
như người em ở Dự Chương đó thôi!
* Thư sinh X… ở Duy Dương vừa viết xong một quyển dâm thư, mộng thấy
thần quở trách. Tỉnh giấc bèn tự hối, liền thôi [không viết nữa]. Về sau, do con
thơ, nhà nghèo, vẫn lấy ra đem in. Chẳng lâu sau, mắt mù, tay sanh ghẻ độc, năm
ngón tay đều co quắp mà chết.
* Thi Nại Am viết bộ Thủy Hử, trong ấy, miêu tả những chuyện gian dâm,
cướp bóc [sống động] như vẽ. Con cháu ba đời bị câm.
* Năm Bính Ngọ (1666) đời Khang Hy nhà Thanh, tại một huyện thuộc
Duyện Châu, có Trịnh sinh là người đẹp trai, phong nhã, giỏi văn chương. Mê
thích con gái của người cậu vừa đẹp vừa hiền thục, xin cưới; người cậu chẳng chấp
thuận, vì đã nhận sính lễ của nhà họ Tiêu ở ấp bên cạnh. Do chú rể bị bệnh, nên
cả năm chưa xuất giá. Trịnh sinh mua chuộc tớ gái của cô ấy, lấy được đôi hài
dùng khi đi ngủ và túi thơm của cô ta. Trịnh sinh thường giắt theo, khoe với họ
nội của chàng Tiêu, bảo cô gái ấy và mình có tư tình; ấy là vì muốn lập kế cho
chàng Tiêu biết đến, ắt sẽ ly hôn. Khi đã bị ly hôn, [cô em họ] bị mang tiếng,
chẳng có ai muốn lấy; sau đấy, [Trịnh sinh] sẽ có thể xin cưới được. Chàng Tiêu
biết chuyện, nửa tin, nửa ngờ, sai người đến hạch hỏi mẹ cô ta. Cô gái nghe những
lời báng bổ, phẫn hận không thể kiềm chế nổi, vung dao sắc tự tử. Cha cô ta kiện
lên quan. Vị chủ ấp là ông X… tính tình công chánh, cương nghị, bắt Trịnh sinh
lên tra hỏi, vạch trần sự thật. Trịnh sinh bị phán xử tử.
Nhận định: Đời Đường, cô con gái người dì của Nguyên Chẩn là Thôi Oanh
Oanh, vốn là tuyệt thế giai nhân. Chẩn cố công xin cưới, nhưng bà Thôi vốn muốn
gả [Oanh Oanh] cho cháu là Trịnh Hằng. Chẳng được toại ý, Nguyên Chẩn hết
sức phẫn hận, do vậy, viết bộ Hội Chân Ký để bêu xấu, đội tên Thôi Oanh Oanh
 Do khi xưa phụ nữ Trung Hoa bó chân, nếu tháo vải bó chân ra, chân sẽ bị thốn đau
không đi lại được. Trước khi ngủ, phải thay vải bó mới, rửa chân, ngâm hương liệu cho
khỏi hôi thối, bọc lại, dùng một loại hài mềm riêng để dùng khi cần đi lại trong nhà, khác
với loại hài cứng, thêu thùa công phu dùng để đi ra ngoài. Để giữ cho thân thể thơm tho,
nữ nhân cũng hay đeo những chiếc túi bằng lụa gấm, thêu thùa cầu kỳ, đựng hương liệu.
Ngay cả nam giới thuộc các dòng họ quyền quý cũng hay đeo túi thơm ngang thắt lưng.
Khi một cô gái có tình ý với ai thường đích thân thêu túi thơm tặng cho người ấy.
 Hội Chân Ký còn gọi là Thôi Oanh Oanh Truyện, mô tả mối tình giữa Trương Quân Thụy
và Thôi Oanh Oanh. Theo bộ truyện đó, Thôi Oanh Oanh do theo mẹ đưa quan tài của cha
về quê, đã ở nhờ dãy sương phòng phía Tây chùa Phổ Cứu, đã gian díu với Trương Quân
viết những bài thơ xướng họa lưu truyền trong cõi đời, khiến cho ngọc trắng không
tỳ vết bị lấm lem muôn đời. So với Trịnh sinh, tội ấy càng nặng hơn nữa. Về sau,
Nguyên Chẩn mắc quả báo lửa sét đốt thây, há cũng chẳng thích đáng ư?
* Một thư sinh ở Giang Nam, văn chương hay khéo, nhưng tính chuyên thích
bàn chuyện buồng the của kẻ khác. Năm Kỷ Dậu đi thi Hội, đến khi vào tam
trường, lúc được ban đuốc, bỗng dưng thấy trên quyển văn của mình có bốn
chữ “háo đàm khuê khổn” (ham bàn chuyện buồng the). Chàng vội vàng lấy tay
xóa đi. Khi kiểm lại, sửa lỗi, thấy phía sau quyển thi đã bị chà nát. Khi khảo quan
dùng bút son chấm bài, thấy bảy bài văn do anh ta đã viết hết sức hay khéo, tính
lấy anh ta đỗ đầu, nhưng vì không có bài nộp cho vòng thi thứ ba, chẳng thể chấm
đậu. Từ đấy, chàng thư sinh suốt đời lận đận [chẳng đỗ đạt gì].
* Cuối đời Minh, ở vùng Ngô Hạ (Tô Châu), có Tần sinh học giỏi, lắm tài,
giỏi nhất là sáng tác thi từ, nhạc phủ. Anh ta là một kẻ hết sức khinh bạc, chỉ
thích châm biếm, nhạo báng cõi đời. Hễ thấy kẻ nào dung mạo, hình dáng xấu xí
bèn chẳng chịu nổi, ngay lập tức làm một bài thơ [chế giễu] ngay trước mặt [người
đó]. Hễ nghe kẻ khác làm chuyện gì đáng cười, lọt vào tai anh ta là đã có ngay
một khúc ca [nhạo báng]. Một người bạn thân của anh ta đút lót để được vào
trường huyện, anh ta bèn làm bài thơ “Du Tường Thi” (thơ nhập học trường
huyện) gồm một trăm vần để chúc mừng. Nhà hàng xóm có chuyện mèo chuột,
anh ta liền tặng cho mười bài thơ Chim Hoàng Anh, xiên xỏ bóng gió tột bậc hay
khéo, miệng đời rao truyền thấu khắp xa gần. Do vậy, nhiều lượt bị khốn đốn bởi
nắm đấm, lại còn bị thưa kiện lên quan, gần như bị tước sạch danh vị, vẫn trọn
chẳng thay đổi. Đến tuổi xế chiều, bỗng bị sốt rét phát cuồng, tự ăn phân của
chính mình, cầm dao tự cắt lưỡi. Người nhà giằng lấy dao, xiềng trong buồng
trống. Tìm dao không được, bèn nhai lưỡi nát bét phun ra. Mùi thối lan ra tận
Thụy, ăn nằm với nhau trước khi cưới hỏi v.v… Đến đời Nguyên, Vương Thực Phủ biên
soạn thành tuồng hát có tên là Tây Sương Ký.
 Do những buổi thi kéo dài từ sáng đến tối, thí sinh phải dựng lều trong khu vực trường
thi, đến tối được cấp đèn đuốc để tiếp tục viết bài cho đến khi nghe trống chấm dứt buổi
thi và quyển thi được thu hồi.
 Nhạc Phủ (樂府) là một loại thơ, thuộc vào trong ba hình thức thơ cổ điển của Trung Hoa
(tức Cổ Thi, Cận Thể Thi, và Nhạc Phủ). Nhạc Phủ vốn là loại thơ có thể phổ nhạc để ca
hát. Vì thế, sau này bất cứ loại thi ca nào có thể phổ nhạc đều có thể gọi là Nhạc Phủ. Nhạc
Phủ là danh xưng từ đời Tần để chỉ cơ quan quản lý âm nhạc của triều đình. Các triều đại
sau gọi cơ quan ấy là Nhạc Phủ Lệnh hoặc Nhạc Phủ Thự. Điểm đặc sắc của lối Nhạc Phủ
là chịu ảnh hưởng các bài thơ trong kinh Thi, chú trọng mô tả hiện thực, có âm điệu du
dương, văn tự uyển chuyển, chú trọng miêu tả khắc họa và tự sự, dần dần diễn biến thành
nhiều loại như ca, hành, ngâm, khúc, nhạc, lộng, tháo, dẫn v.v… Những tác phẩm nổi tiếng
như Lệ Nhân Hành, Binh Xa Hành của Đỗ Phủ, Trường Hận Ca, Tỳ Bà Hành của Bạch Cư
Dị được coi là tiêu biểu cho lối tân nhạc phủ.
ngoài cửa. Sau đó, từ khe cửa sổ trông ra, thấy trong sân có cái búa chẻ củi, bèn
dũng mãnh phá vỡ cửa sổ thoát ra, vớ lấy búa tự chém chính mình đến chết!
Nhận định: Trong bộ Giác Thế có nói: “Với tài năng ấy, Tần sinh [hô hào
khiến cho] dân chúng tuân theo phong tục tốt đẹp, há khó khăn gì? Sao lại khiến
cho cái tài đó trở thành công cụ để giết mình? Khác gì Tùy Hầu dùng minh châu
để ném chim sẻ, dùng gươm Thái A để đốn củi!” Gần đây, có một thư sinh, có tài
lạ, tự cho rằng ắt sẽ thi đậu, nhưng ưa dùng những giáo huấn trong kinh sách [của
thánh hiền] để châm chọc. Về sau, [đi thi] nhiều lần được chấm điểm cao, nhưng
cứ vào vòng thi sau bèn có chỗ viết sai, luôn luôn bị trượt. Đấy chính là lẽ báo
ứng vì đã vũ nhục lời lẽ thánh hiền! Những kẻ có tài trong cõi đời thường phạm
lỗi này mà chẳng biết sai trái. Ôi! Đọc sách như vậy, có khác gì kép hát diễn tuồng
ư? Hình tượng tư văn đã bị hạng người ấy vùi xuống tận đất mất rồi!
* Lý Thúc Khanh luôn liêm khiết, cẩn thận; đồng liêu là Tôn Nham ghen
ghét, bịa chuyện rêu rao cùng mọi người: “Thúc Khanh chỉ được cái danh suông!
Theo như tôi thấy, hắn chẳng bằng chó, lợn!” Nếu có ai hỏi vì sao nói như vậy,
hắn ta đáp: “Thúc Khanh ăn nằm với em gái của chính mình, còn đáng làm người
ư?” Do vậy, [lời ong tiếng ve] đồn đại ồn ào xa gần. Thúc Khanh muốn biện minh,
nhưng chẳng tiện mở miệng. Nếu chẳng muốn nói rõ, phẫn hận, giận dữ khó chịu
nổi. Vì thế, ôm nỗi uất ức mà chết. Em gái ông ta nghe tin, biết chuyện, hết sức
kinh hoảng, phẫn hận, cũng treo cổ tự tử. Chẳng được mấy hôm, trời nổi giông tố,
sét đánh Tôn Nham chết tươi, quăng thây đến tận cửa nhà Thúc Khanh. Đến khi
đem chôn, sét lại đánh xuống mồ hắn!
Nhận định: Đây là kẻ có ý niệm bịa chuyện ô nhục, khinh miệt người khác,
cho nên mắc phải quả báo nặng nề như vậy. Dẫu không có tâm châm biếm, cũng
trọn chớ nên! Vào năm Nhâm Tý, tại trường thi Chiết Giang, có một phụ nữ bước
vào khu vực đặt lều thi, vừa đi vừa hét to: “Vương Nhị ở Đông Dương”. Cả trường
thi hoảng hồn, dùng đèn đuốc soi, chẳng thấy bà ta đâu cả. Do vậy, tìm kiếm trong
dãy lều thi, quả thật có một người họ Vương đứng hàng thứ hai. Mọi người kể rõ
nguyên do [tìm kiếm], rồi vặn hỏi nguyên nhân. Người ấy suy nghĩ rất lâu, nói:
“Mấy năm trước, họ hàng tụ tập chuyện gẫu đùa cợt. Ngẫu nhiên nói tới một bà
góa thủ tiết trong thôn, bèn bảo [thủ tiết] khó tin quá! Bà ta nghe chuyện, phẫn
hận chết đi, chắc là chuyện ấy!” Do vậy, anh ta sợ hãi, không dám nộp quyển thi,
thâu thập hành lý ra khỏi lều thi, [bỗng dưng], vấp ngã nơi bậc thềm, bị thương ở
trán, đến sáng bèn chết. Có thể thấy tai hại của sự đùa bỡn, châm chọc. Đối với

 Tư văn (斯文) là từ ngữ dùng để chỉ người có học thức, có sự hàm dưỡng, lễ độ, biết tôn
trọng người khác. Hiểu theo nghĩa hẹp, từ ngữ này được dùng để chỉ giới nho sĩ.
những chuyện liên quan đến danh tiết của người khác, trọn chẳng thể coi thường
thốt ra lời được!
* Lam Nhuận Ngọc tuổi chớm hai mươi, rất mực tài hoa, phong thái thanh
tú. Các bạn học đều cho rằng anh ta sẽ đỗ đạt, vinh hiển. Gần chỗ anh ta ở là nhà
của một vị Thượng Thư nọ. Vị Thượng Thư có đứa con gái đã hứa hôn, nhưng
chưa gả. Cô ta tài sắc nức tiếng một thuở. Có lần, ngẫu nhiên Lam sinh thấy cô ta
lên xe; trở về, khát khao mơ tưởng. Một hôm, tản bộ nơi vườn sau, nghe cách
tường có tiếng con gái, trèo lên dòm trộm, biết đó là người [mình đã từng thấy]
trong xe, bèn ngấm ngầm khoét nửa viên gạch ở chân tường để hằng ngày ngắm
nghía. Được nửa năm, cô ta về nhà chồng. Chàng Lam không còn cách nào nhìn
trộm được nữa! Buồn bã, thất vọng quá sức. Do vậy, viết bài từ Trường Tương
Tư, bị một người bạn đọc được. [Người ấy] liền đốt ngay, lại căn dặn [Lam sinh]
đừng nói với ai, vì sẽ gây tổn hại rất lớn cho đức hạnh. Lam sinh cười chê lời ấy
là vớ vẩn. Về sau, vào trường thi, đêm mộng thấy bị một vị thần khoét mắt. Chàng
ta nằm ngủ mà mắt rất đau, hai tròng mắt như bị kim đâm, chẳng thể mở mắt
được. Do vậy, phải để giấy trắng. Trở về nhà, vẫn không ngừng đau, rồi mù cả
hai mắt. Đến khi yết bảng, người bạn thiêu hủy bài từ ấy được xếp đỗ đầu.
* Công tử X… ở đất Ngô, do muốn gian dâm một bà góa, bèn cùng với gã
bạn hợp ý bày mưu tính kế. Người bạn liền bày một kế, ước hẹn sẽ thực hiện vào
ngày nào đó. Đến ngày ấy, cha hắn mộng thấy một vị thần mặc áo đỏ bảo: “Con
trai ngươi lẽ ra đỗ đạt; do có tâm thuật bại hoại kẻ khác, công danh bị tước sạch.
Thằng bạn kia vốn nghèo hèn, lại vì người khác bày mưu xấu xa, ắt sẽ bị cắt từng
tấc ruột”. Ông bố kinh hãi, tỉnh giấc, tới ngay thư phòng, quả nhiên nghe tin gã
bạn ấy rên siết đau bụng rồi chết. Công tử cũng dần dần phát cuồng, đầu bù tóc
rối lang thang khắp phố phường, trọn chẳng thể cứu chữa!
* Có người họ Hoàng Phủ ở Chiết Giang, đậu Tiến Sĩ dưới đời Càn Long.
Sau khi bị bãi quan, bèn làm chủ giảng tại thư viện Lệ Trạch. Về sau, chỉ có hai
vợ chồng già [sống cô quạnh], chết trong nghèo túng. Ông ta thường nói với người
khác: “Khi ta làm Tri Huyện ở huyện nọ, có đứa môn sinh là X… có tài nhưng vô
hạnh. Sau khi đậu kỳ thi Hương, nó chê người vợ đã đính hôn [nhưng chưa cưới]
nghèo hèn. Nhằm lúc cô ta mắc bệnh cổ trướng, nó vu khống cô ta chửa hoang,
thưa lên tôi, xin ly hôn. Khi đó, tôi xử oan cô ta, chẳng cho cô ta biện bạch. Cô ta
rút dao tự mổ bụng [minh oan]. Chuyện được tâu lên trên, thằng học trò ấy phải
đền tội, mà tôi cũng bị bãi chức. Tôi chỉ có một đứa con, đã từng thi đậu, nào ngờ
giữa ban ngày, thấy nữ quỷ ấy hiện ra, chết tươi! Nay vợ chồng tôi già cả, không
nơi nương cậy, mắt sắp thấy chính mình trở thành quỷ tha hương, không ai cúng
tế! Quả báo cũng thảm khốc thay!”
Hối lỗi án (những câu chuyện hối lỗi)
* Vào đời Minh, Hồng Đảo một hôm đột ngột chết đi, hoảng hốt thấy một
người áo xanh dẫn tới âm phủ. Họ Hồng hỏi về chuyện ăn lộc của mình trong một
đời sẽ như thế nào? Người áo xanh lấy từ trong tay áo một quyển sổ to cho ông
Hồng xem. [Ông ta thấy] dưới phần ghi tên họ của chính mình, chữ ghi [chi chít]
nhỏ như muỗi, chẳng thể đọc hết. Phía sau ghi chú: “Đáng lẽ được làm Tham Tri
Chánh Sự, nhưng do ngày… tháng… năm đã gian dâm với cô gái chưa chồng tên
là…, bị giáng xuống làm Bí Các Tu Soạn Chuyển Vận Phó Sứ”. Ông Hồng rùng
mình, ứa nước mắt, hỏi: “Làm thế nào đây?” Người áo xanh nói: “Chỉ nên nỗ lực
làm lành thì được rồi”. Trong chốc lát, tới trước một con suối lớn, người áo xanh
đẩy họ Hồng ngã xuống. Ông Hồng hoảng hốt tỉnh lại, thì ra đã chết ba ngày. Do
tim còn ấm, nên [người thân] chưa khâm liệm. Ông bèn thống thiết tự hối lỗi, tận
lực làm lành. Về sau, ông do thấy được bổ làm chức Bí Các Tu Soạn Tào Vận của
Lưỡng Chiết [ứng hợp với điều] đã được đoán trước, hết sức sợ hãi. Sau đấy,
chẳng có [chuyện bất ngờ] gì khác, làm quan tới chức Đoan Minh Điện Học Sĩ,
hưởng thượng thọ rồi mất. Đấy chính là báo ứng do nỗ lực hối lỗi vậy!
Nhận định: Người đời thấy có kẻ phạm lỗi ấy mà vẫn phú quý, bèn ngờ cảm
ứng chẳng có căn cứ! Nào có biết, lẽ ra ông Hồng làm tới chức Tham Tri Chánh
Sự, bị giáng xuống chức Bí Các Tu Soạn! Lại chẳng biết ông Hồng nếu chẳng tận
lực hối lỗi, há có chuyển biến ngấm ngầm [thăng chức cao hơn] ư? Hãy cẩn thận,
chớ sanh tâm không kính tín. Nếu cam lòng như Lý Đăng gạt bỏ Trạng Nguyên,
Tể Tướng, vẫn khăng khăng mừng vì đã đậu Giải Nguyên ư?
* Đời Thanh, ở Hán Dương có một chư sanh có tài, nổi tiếng, nhưng đi thi
nhiều lần chẳng đậu. Một người bạn bèn vì ông ta cầu cơ thưa hỏi. Thần giáng cơ:
“Thư sinh ấy đáng lẽ đỗ đạt; do vì lúc tuổi trẻ, ngồi dạy học tại nhà nọ, tư thông
với một đứa tớ gái, chẳng thể nào mong mỏi đỗ đạt được”. Thư sinh nghe nói kinh
sợ; do vậy, biên tập bộ Giới Dâm Công Quá Cách, lại còn chú giải, ghi chép khá
nhiều câu chuyện thật sự sau mỗi đoạn, quyên góp tiền bạc để ấn hành, biếu tặng.
Tới khoa thi năm Bính Tý đời Khang Hy (1696), bèn thi đậu, ai nấy đều cho là
báo ứng do đã sửa lỗi vậy.
* Đời Minh, ông Hạng Hy Hiến vốn có tên là Đức Phân. Nằm mộng thấy đỗ
kỳ thi Hương năm Quý Mão, do ô nhục hai đứa tớ gái nhỏ tuổi, bị thần gạt bỏ
khoa cử, bèn thề tránh tà dâm, nỗ lực làm lành hòng chuộc lỗi trước. Về sau, ông
mộng thấy đến một nơi, trông thấy có một tờ giấy vàng, nơi dòng thứ tám ghi họ
 Lưỡng Chiết gọi đủ là Lưỡng Chiết Lộ, là một đơn vị hành chánh từ thời Bắc Tống, dựa
theo danh xưng Chiết Đông Lộ và Chiết Tây Lộ thời Đường. “Lộ” (路) là một khu vực hành
chánh tương đương với tỉnh hiện thời. Lưỡng Chiết bao gồm tỉnh Chiết Giang hiện tại.
Hạng, chữ chính giữa không rõ ràng, chữ cuối cùng là Nguyên. Có người bên cạnh
nói: “Đấy chính là thứ tự trên bảng trời của ngươi! Do ngươi gần đây đổi hạnh,
nên lại đạt được thứ hạng ấy”. Do vậy, ông bèn đổi tên là Mộng Nguyên. Khoa
thi Hương năm Nhâm Tý, ông đỗ hạng hai mươi chín tại phủ Thuận Thiên. Thi
Hội năm Kỷ Mùi, đỗ hạng hai. Rất nghi thứ hạng trong mộng sai lầm. Tới khi thi
Đình, đỗ thứ năm trong hàng Nhị Giáp. Ông mới hiểu thứ tự ấy phù hợp với kết
quả thi Đình, đúng là hạng tám. Bởi lẽ, kết quả thi Hương và thi Hội đều dùng
giấy trắng [để yết bảng], chỉ riêng có bảng kết quả thi Đình là dùng giấy vàng!
Nhận định: Do mộng mà tỉnh ngộ, thống thiết tự sửa đổi, vẫn là người có
phước. Nếu không, công danh đã bị tước sạch mất rồi; há còn chiếm được thứ
hạng đỗ đạt nữa ư? Có thể biết, đạo trời giáng họa cho kẻ dâm, chẳng giáng tội
người hối lỗi. Kẻ có chí chẳng vì trót sa chân bèn bảo là “không thể chuyển dời
được!”
* Giả Nhân đã năm mươi tuổi, không con. Đêm mộng thấy mình đến một
tòa phủ đệ, biển đề Sanh Dục Từ. Do vậy, Giả Nhân cầu khẩn có con nối dõi. Chủ
nhân lấy sổ sách cho xem, bảo: “Ngươi đã từng gian dâm với vợ kẻ khác, muốn
cầu con, chẳng thể được”. Giả Nhân van xin: “Tiểu dân vô tri, xin dung cho chuộc
tội”. Thần nói: “Ngươi đã hối lỗi, hãy khuyên mười người không dâm thì mới có
thể chuộc tội. Nếu khuyến hóa nhiều người hơn, ắt sẽ có con”. Giả Nhân tỉnh giấc,
thống thiết cải hối. Do vậy, sốt sắng khuyên người đời, cảm hóa rất nhiều. Về sau,
sanh hai con.
* Năm Tân Mão, trước hôm bắt đầu khoa thi tại Chiết Giang, có một người
nằm mộng thấy thần thánh tụ hội để xét đoán những người sẽ thi đậu, [quyết định]
người sẽ đỗ đầu tên là Chung Lãng. Có một phụ nữ kêu oan. Vị thần ngồi chính
giữa bảo: “Như vậy thì hắn không thể đậu được!” Do vậy, dò xét để tìm người
khác điền vào chỗ đó. Người bên cạnh đáp: “Vậy thì lấy thằng bé con thế vào”.
Người ấy tỉnh giấc, kể lại giấc mộng với ông Chung. Vì thế, dò hỏi cặn kẽ ông
Chung về ngọn ngành. Thì ra trong nhà ấy có một đứa tớ gái mang thai, do bà chủ
(vợ ông Chung) chẳng dung, đem dìm nước cho chết. Họ Chung thường vì chuyện
này mà tâm bất an. Nghe kể chuyện nằm mộng, hết sức kinh hãi. Quả nhiên, khoa
ấy họ Chung thi rớt, Dư Tuân đậu Trạng Nguyên, nói “thằng bé con” (Nhụ Tử)
chính là tên tự của Tuân vậy. Chẳng lâu sau, vợ ông Chung bị bệnh chết. Ông
 Trong kết quả thi Đình, ba người đỗ đầu được gọi là Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ, gồm Trạng
Nguyên, Bảng Nhãn và Thám Hoa, những người đỗ kế đó được chia thành hai loại là Đệ
Nhị Giáp và Đệ Tam Giáp. Ông Hạng đỗ thứ năm trong Nhị Giáp, tức là sau ba người trong
Đệ Nhất Giáp và bốn người trong Đệ Nhị Giáp, cho nên đúng là đậu thứ tám.
Chung càng thêm sợ hãi; do vậy, tận lực làm lành chẳng lười nhác. Khoa thi sau,
nhằm năm Giáp Ngọ, bèn đỗ Giải Nguyên.
* Ông Trương ở Hoa Đình thuở trẻ phạm tà dâm. Về sau, sanh hai đứa con
đều chẳng nuôi được. [Chính ông ta] lại bị bệnh lao, nhiều năm chẳng khỏi. Ngẫu
nhiên xem các câu chuyện trong bộ Đan Quế Tịch, thấy quả báo do dâm dục
rành rành, hối hận khôn xiết, bèn đối trước thần thề: “Vĩnh viễn kiêng tà dâm”.
Lại còn in Âm Chất Văn thí tặng rộng rãi, căn bệnh ấy liền lành. Trong vòng mấy
năm, sanh liên tiếp ba đứa con.
* Vào đời Minh, chàng họ Điền phong thái tuấn nhã. Trong làng, có nhiều
phụ nữ quyến rũ, dan díu, bèn lánh sang chùa Nam Sơn ở gần đó để đọc sách.
Gần chùa cũng có người đến [quyến rũ], trong lòng họ Điền biết là sai trái, nhưng
chẳng nỡ cắt đứt chuyện ong bướm. Thoạt đầu, ông thường nằm mộng thấy một
vị thần hết sức lùn nhỏ. Sau đó, vị thần ấy hiện thân vào ban ngày, bảo: “Ngươi
vốn có phước lớn, lẽ ra làm quan Ngự Sử, do ong bướm đa tình, công danh đã bị
tước sạch. Thượng Đế sai ta giám sát ngươi. Nếu từ rày sửa đổi, vẫn có thể chẳng
đánh mất công danh”. Ông bèn hoảng nhiên hối cải; về sau, quả nhiên thi đậu.
* Tào Trĩ Thao đỗ Tiến Sĩ trong đời Sùng Trinh nhà Minh. Lúc còn là chư
sanh, đã tư thông với một người đàn bà hàng xóm. Chồng cô ta biết chuyện, muốn
giết chết, giả vờ nói: “Ngày mai ta sẽ đi xa, vài hôm mới về”. Vợ nghe nói mừng
lắm, ngỡ là thật, liền hẹn hò Trĩ Thao đến nhà. Ngày hôm ấy, nhằm đúng kỳ hẹn
các bạn văn họp mặt, từ sáng sớm, bạn bè đã đến lôi kéo Trĩ Thao. Trĩ Thao từ
chối, bạn bè biết rõ nguyên do, cưỡng ép đến chỗ họp mặt bàn luận thơ văn. Bạn
bè nói với vị chủ trì cuộc họp mặt: “Hôm nay viết văn, phải chiếu theo cách thức
viết trong trường thi Hội. Tiệc đêm, ắt phải uống say khướt mới về. Nếu chẳng
tuân theo quy ước, sẽ bị phạt”, lại bảo người chủ trì khóa chặt cửa nẻo, các thư
sinh chẳng được tự tiện ra vào. Trĩ Thao hết sức bồn chồn, bất đắc dĩ, ngoáy bút
cho xong bài văn, muốn về trước. Các bạn ồn ào: “Có hẹn trước à? Về gấp vậy?”
Đến tối, [trong khi] uống rượu, Trĩ Thao có tâm sự, cố ý uống ít. Các bạn ép phải
uống, [không uống], sẽ trừng phạt nghiêm khắc. Trĩ Thao say mèm, các bạn đưa
về, không thể đến chỗ hẹn được! Người đàn bà hàng xóm chờ Trĩ Thao đã lâu, tựa
cửa trông ngóng. Có gã vô lại biết người đàn bà ấy quen thói lăng nhăng, thấy bà
ta tựa cửa chờ đợi, ắt có kẻ ước hẹn chẳng tới, bèn ve vãn, bà ta cũng chẳng cự
 Đan Quế Tịch chính là tên gọi chung những sách chú giải bài Văn Xương Đế Quân Âm
Chất Văn. Bài Âm Chất Văn rất ngắn, nhưng sách chú giải đặc biệt phong phú, do [bài văn
ấy] có tác dụng khuyến thiện rất mạnh, nên rất được Phật môn Trung Hoa coi trọng. Sách
chú giải nổi tiếng nhất là Văn Xương Đế Quân Âm Chất Văn Quảng Nghĩa. Sách này đã
được ông Châu An Sĩ (Châu Mộng Nhan) rút gọn, tạo thành quyển thứ nhất trong bộ An Sĩ
Toàn Thư. Mức độ nổi tiếng của thiện thư này chẳng kém Thái Thượng Cảm Ứng Thiên.
tuyệt. Người chồng nấp sẵn, liếc thấy, cầm rìu giết chết hắn và giết luôn mụ vợ.
Ngày hôm sau, Trĩ Thao nghe chuyện ấy, bèn nhờ các bạn làm chứng, thề với
thần minh, thề sẽ làm lành bù lỗi, trọn chẳng đi theo đường tà nữa. Mấy năm sau,
thi đỗ Tiến Sĩ. Thuở ấy, Trĩ Thao đang sống mà đáng chết, lẽ ra phải chết mà
được sống, chỉ trong đường tơ kẽ tóc, là do nhờ bạn lành cứu vớt. Gã vô lại kia do
thấy có thể làm chuyện dâm dục mà lao vào, quên bẵng mối họa ẩn tàng, trong
nháy mắt bị chết dưới lưỡi rìu. Ngạn ngữ có câu: “Gian tất sát” (Gian dâm ắt bị
giết), đúng thay!
* Trương Ninh tuổi già không con, đến cầu đảo ở miếu thờ của gia tộc, thưa:
“Ninh tôi đã tạo nên đầu mối tội lỗi nào mà đến nỗi dứt mất dòng dõi của tổ tiên?”
Một người thiếp ở bên cạnh nói: “Nếu ông chẳng làm lỡ làng cuộc đời chúng tôi,
đó chính là âm chất”. Trương Ninh hoảng sợ, tỉnh ngộ, xét hỏi [những tiểu thiếp]
xem người nào chẳng muốn ở lại, ngay hôm ấy, cho mấy người đi lấy chồng. Năm
sau, bèn sanh được một trai.
* Thôi Thư Nhân ở Thượng Hải đã từng thuê người vẽ mười mấy bức tranh
khiêu dâm, [mỗi bức vẽ] đều mô tả sự dâm đãng tột bậc. Về sau, bị sốt rét không
ngừng. Mỗi lần lên cơn sốt dữ dội, đều thấy đàn ông, đàn bà xinh đẹp mười mấy
người, toàn là trần truồng, lõa lồ, bị hai quỷ sứ kẹp lấy, mổ bụng, rút ruột, máu
tung tóe đầy đất. Kế đó, đến phiên họ Thôi [bị quỷ hành hình], gào thét đau đớn,
[tự mình] nói tường tận nguyên do, cả nhà đều nghe. Họ Thôi tỉnh ngộ, vội vã đốt
đi, bệnh bèn được lành.
* Triệu Nham Sĩ thuở trẻ từng phạm sắc giới, dần dần thân hình yếu đuối,
còm cõi, thân thể như bộ xương khô, gần như chẳng còn mong sống được nữa.
Chợt đọc bộ Bất Khả Lục do ông Tạ Hán Vân in, bất giác mồ hôi đẫm lưng, thống
thiết sửa đổi lỗi xưa, và thỉnh bản in ấy, bỏ tiền ra ấn tống. Sau đấy, tinh thần dần
dần khá hơn, sanh liên tiếp sáu đứa con.
* Trong niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, có một chàng thư sinh nọ, láng giềng
ở phía Đông có một phụ nữ hết sức xinh đẹp, đã nhiều lượt mày đi mắt lại. Một
hôm, thừa dịp chồng sang nơi khác, bà ta bèn khoét tường, chèo kéo chàng ta.
Chàng ta cũng động tâm, hỏi từ đâu tới? Bà ta cười ghẹo: “Chàng là người đọc
sách, há chẳng nhớ câu ‘du đông gia tường’ (vượt tường phía Đông) ư?” Chàng
bắc thang trèo lên, chợt suy nghĩ lại: “Có thể lừa người, chẳng thể lừa trời”. Bèn
trèo xuống. Bà ta lại đi đến chỗ cũ (chỗ tường đã bị khoét) nũng nịu quyến rũ.
Chàng lại động tình, lại trèo lên thang. Đã ngồi ở đầu tường, sắp nhảy sang, lại
nghĩ: “Trọn chẳng thể lừa dối trời”, mau chóng trở xuống, đóng cửa, bỏ đi. Năm
sau, do thi Hương, chàng lên miền Bắc. Quan giám khảo vào tối hôm mở trường
thi, đốt đuốc ngồi một mình, bỗng nghe bên tai có tiếng nói: “Trạng Nguyên chính
là chàng cưỡi tường”. Sau khi đã yết bảng, bèn dò hỏi, mới hiểu rõ chuyện trước
kia.
* Năm Nhâm Tý (1612) đời Vạn Lịch nhà Minh, Trương Vỹ ở Vũ Tấn cùng
chàng thư sinh X… sang Nam Kinh đi thi. Đêm đến quán trọ, chủ nhân mộng
thấy đón tiếp thiên bảng mà Giải Nguyên chính là chàng thư sinh X… bèn kể lại
với thư sinh đó. Chàng ta dương dương đắc ý. Chủ nhân có hai cô con gái ở trên
lầu, vừa đến tuổi cập kê, nghe nói bèn động tâm, sai tớ gái chèo kéo chàng, từ trên
lầu thả tấm vải xuống để làm thang. Chàng ta lôi kéo Trương Vỹ cùng trèo lên.
Nửa chừng, Trương Vỹ bỗng tỉnh ngộ, nói: “Ta đi thi, sao lại làm chuyện tổn đức
này?”, vội vàng tụt xuống. Chàng thư sinh kia vẫn tiếp tục trèo lên. Tối hôm ấy,
chủ trọ lại mộng thấy bảng trời, Giải Nguyên đã đổi thành tên Trương Vỹ, hết sức
kinh hãi, kể lại với chàng thư sinh ấy, lại còn cật vấn gần đây đã làm chuyện gì.
Chàng ta đỏ mặt, không trả lời được. Khi yết bảng, quả nhiên như vậy. Chàng thư
sinh ấy hết sức hổ thẹn, về sau nghèo hèn, uất ức mà chết.
Nhận định: Xét ra, Trương sinh và người cưỡi tường đều tỉnh ngộ ngay khi
ấy. So ra, càng tốt đẹp hơn những kẻ đã từng phạm rồi sau đó mới kiêng dè. Cho
đến lúc ấy, nếu chẳng bừng tỉnh, không chỉ là mất sạch công danh vốn nên có, mà
còn đọa nhập biển khổ vô biên. Đáng sợ thay!
* Hoàng Sơn Cốc đời Tống thích những ca từ diễm tình, thường đến thăm
Viên Thông Tú thiền sư. Tú thiền sư quở trách: “Bậc đại trượng phu sẵn tài bút
mực, cam tâm làm chuyện này ư?” Do khi ấy, Tú thiền sư vừa răn nhắc Lý Bá
Thời về chuyện vẽ ngựa. Sơn Cốc cười nói: “Chẳng lẽ tôi cũng sẽ sanh trong
bụng ngựa ư?” Tú thiền sư bảo: “Bá Thời nghĩ tưởng ngựa, bất quá mình ông ta
đọa lạc. Ông dùng lời lẽ diễm tình khuấy động dâm tâm của mọi người trong thiên
hạ, không chỉ là sanh trong bụng ngựa, tôi sợ ông sẽ bị đọa địa ngục vậy”. Sơn
Cốc hoảng sợ, hổ thẹn, từ tạ. Từ đấy, thôi không viết nữa.
* Tiền Đại Kinh ở Tứ Xuyên, phong tư, thần thái tuấn tú, hễ hạ bút bèn viết
ngàn lời. Mười bảy tuổi đã vào trường huyện, nhiều lượt đi thi [nhưng chẳng đậu].
Đến khoa thi năm Canh Tý, chàng cầu đảo Văn Xương Đế Quân. Đêm mộng thấy
đồng tử áo xanh dẫn đến trước Đế Quân. Ngài sai thuộc hạ tra sổ, thấy chép: “Tiền
Đại Kinh hai mươi tuổi đậu thứ hai trong kỳ thi Hương. Đỗ liên tiếp, đỗ Trạng
Nguyên đứng đầu thiên hạ. Làm quan tới cấp nhị phẩm. Thọ bảy mươi ba tuổi.
Do đã soạn ba bộ dâm thư, bị gạt tên [khỏi sổ quan lộc], tuổi thọ cũng không được
 Lý Bá Thời là một họa gia nổi tiếng về tài vẽ ngựa thời ấy. Ông say mê ngựa đến nỗi vẽ
đi, vẽ lại không chán. Lúc nào rảnh rỗi đều ngắm nghía ngựa để tìm ra cách vẽ ấn tượng
nhất. Thiền sư Viên Thông Pháp Tú chùa Pháp Vân đã khuyên can: “Ông luôn nghĩ đến
ngựa, chỉ sợ thân sau sẽ đọa lạc trong bụng ngựa”.
dài lâu như vậy”. Đế Quân khuyên dụ: “Ngươi có lòng trung hậu, lại chẳng thiếu
hiếu hữu. Hiềm rằng đã soạn dâm thư, khiến cho nam nữ bại hoại thanh danh,
chôn vùi tiết hạnh. Nếu không do đời trước gieo đức rộng nhiều, đã bị phán tội
đọa địa ngục!” Đại Kinh bèn lập trọng thệ, gặp ai cũng khuyên răn, gặp dâm thư
liền đốt sạch. Về sau, do đỗ kỳ thi Minh Kinh, sống đến sáu mươi hai tuổi bèn
mất.
Đồng thiện dưỡng sanh
* Tạ Hán Vân ở Vân Gian mắc bệnh trầm kha từ bé. Do vậy nghĩ: Trong các
ác nghiệp, chỉ có sắc là dễ phạm nhất, bèn trùng đính bộ Bất Khả Lục do Phùng
thái sử ở Phồn Dương biên tập rồi đem khắc in để lưu truyền rộng rãi. Khi bản in
vừa được khắc xong, bệnh đã hết sạch. Về sau, con cháu đều nổi danh một thời,
như Tinh Môn, Hà Hiên, Thể Tam v.v… nối tiếp nhau đỗ đạt. Đúng là nếp nhà
thư hương chẳng bị đoạn dứt.
* Từ Tín Thiện và Dương Hoằng là bạn thân, đi thi, cùng ở trọ một chỗ, gặp
một vị cao tăng xem tướng bảo: “Ông Dương sẽ hết sức vinh hiển, ông Từ sẽ
nghèo nàn”. Ban đêm, ông Dương ngẫu nhiên thấy trong chỗ trọ có một cô gái
chưa chồng xinh đẹp, mưu tính dùng quà cáp hậu hĩnh để mong thỏa dâm, ông
Từ dùng lời lẽ nghiêm khắc tận lực ngăn trở. Hôm sau, vị Tăng gặp lại ông Từ,
hết sức kinh hãi nói: “Mới qua một đêm bèn có dấu vết Âm Chất nổi lên, đổi từ
hèn thành quý, sẽ hết sức vinh hiển”. Lại xem tướng ông Dương, Sư bảo: “Khí
sắc khác hẳn, chẳng bằng hôm qua. Vì thế, sẽ cùng với ông Từ vinh hiển, nhưng
thứ tự [đỗ đạt] hơi kém hơn ông Từ”. Yết bảng đúng như vậy.
* Vào đời Tống, tiến sĩ Vương Hành Am ở Giản Châu kiềm chế hành vi
chẳng cẩu thả, là hàng xóm với người em họ bên ngoại là Trầm X… Họ Trầm
một mực chuộng dâm. Ông Vương thường khuyên lơn, nhưng họ Trầm không
nghe. [Lại còn] ngấm ngầm sai một chị ở dụ dỗ ông Vương; ông nghiêm khắc cự
tuyệt. Hắn lại tiếp tục sai một đứa tớ gái xinh đẹp ráng dụ dỗ ông, ông cũng
nghiêm khắc cự tuyệt. Họ Trầm cố ý khiến cho ông phá giới để cười nhạo. Một
ngày nọ, ông và họ Trầm ra ngoài, gặp bọn trộm cướp. Họ Trầm do thuyền nhỏ
bèn trốn thoát. Thuyền của ông Vương bị bọn cướp chặn bắt được. Bỗng nhiên
sấm chớp giáng xuống vang rền, bọn cướp kinh sợ bỏ đi. Ông bình an quay về,
chẳng bị tổn thất gì. Về sau, họ Trầm ra ngoài, trở về nhà, thấy vợ và kẻ khác
đang gian dâm, toan dùng võ khí đánh họ, tay bỗng dưng chẳng thể giở lên được!
Trợn mắt, giậm chân, gào to một tiếng, chết ngắc! Lúc ông Vương năm mươi tuổi,
bị bệnh ngặt nghèo, đạo sĩ [đánh đồng thiếp đi] dâng sớ, quỳ phục xuống rất lâu
sau, [mới tỉnh lại] nói: “Tra duyệt đại hạn của Ngài, chỉ thọ năm mươi tuổi. Thiên
tào do thấy Ngài hai lần chẳng dâm, lại còn có thể thật tâm khuyên lơn kẻ khác,
tăng thọ cho Ngài ba kỷ (ba mươi sáu năm) nữa”. Ông nghe nói run sợ. Về sau,
quả nhiên thọ tám mươi sáu tuổi, tận mắt thấy con cháu phú quý.
Nhận định: Vị này và ông Từ Tín Thiện đã có thể giữ mình nghiêm ngặt,
lại có đức hạnh yêu thương người khác. Nếu người ấy nghe theo lời khuyên răn,
ắt là người ấy sẽ được hưởng ân trạch. Dẫu kẻ ấy chẳng nghe, nhưng do nhiệt tâm
khuyến hóa, đã đủ để cảm động lòng trời, được phước. Người ta cũng sợ gì mà
chẳng làm vậy thay?
* Phủ Gia Hưng có thư sinh nọ tánh thích ẩn giấu điều ác, phô bày điều thiện.
Hễ gặp con em hoặc bạn bè bàn tới chuyện buồng the, liền nghiêm mặt, lộ vẻ
giận, khuyên răn. Do vậy, soạn bài Khẩu Nghiệt Giới Văn (口孽戒文, bài văn răn
đừng tạo mầm mống tội lỗi nơi miệng) để răn dạy hàng hậu học. Về sau, ông ta
đi thi. Đêm hôm trước ngày yết bảng, mộng thấy cha mình bảo: “Con đời trước
đã đỗ Tiến Sĩ từ tuổi thiếu niên. Do cậy tài, khinh rẻ kẻ khác, Thượng Đế phạt
con thi cử lận đận, trọn chẳng đỗ đạt. Tháng trước, có gã học trò đáng lẽ thi đậu
khoa này, vì gian dâm gái chưa chồng mà bị xóa tên. Văn Xương Đế Quân tâu
bày: Con đã soạn bài Khẩu Nghiệt Giới Văn để khuyên người khác, âm công rất
lớn. Xin hãy điền tên con vào đó. Ắt con sẽ đỗ đạt, hãy nên càng thêm tu đức để
báo đáp thiên thần”. Thư sinh ấy kinh hãi lẫn mừng vui. Sau khi thi đỗ, thư sinh
càng thêm cẩn trọng bội phần, làm quan tới chức Ngự Sử.
* Tịch Khuông dĩnh ngộ từ bé. Gặp một thầy bói bảo: “Ông có nếp nhăn dọc
hướng vào miệng, sẽ bị chết đói. Ắt là sang năm [sẽ bị]”. Khuông rất lo lắng. Một
bữa, gặp người bàn chuyện buồng the, hết sức liên quan đến danh tiết [của người
khác], Khuông hầm hầm giận dữ, khiến cho người nói chuyện đó hổ thẹn, không
nói nữa. Chuyện ấy bèn lắng đi! Đã hơn cả năm mà ông Khuông vẫn chẳng hề
hấn gì. Sau đấy, gặp lại thầy bói, ông ta ngạc nhiên hỏi: “Ông có âm công to lớn
gì mà khiến cho tướng mạo biến đổi nhanh chóng như vậy?” Về sau, ông Khuông
có địa vị cao quý.
* Vào thời Tống Đoan Tông , quân Nguyên tấn công Thai Châu, vợ một
người dân ở Lâm Hải
là Vương thị rất đẹp, bị bọn giặc bắt đem vào trong quân.
Gã thiên phu trưởng
 giết bố mẹ chồng và chồng cô ta, muốn ăn nằm với cô. Cô
ta thà chết chẳng thuận theo, giả vờ nói: “Xin cho tôi để tang bố mẹ chồng và
 Tống Đoan Tông (Triệu Thị) là vị vua thứ tám và là áp chót của nhà Nam Tống. Ông là
con của Tống Độ Tông (Triệu Mạnh Khải). Ông được tôn lên làm vua tại Phước Châu khi
kinh thành Lâm An lọt vào tay quân Nguyên, vua Tống Cung Tông bị bắt, hoàng thân quốc
thích bị cầm tù gần hết. Quân Nguyên lần lượt nuốt dần giang sơn nhà Tống. Năm 1278,
quân Nguyên tấn công Tuyền Châu, Chương Châu, thẳng đường tấn công Triều Châu, đánh
chiếm Quảng Châu. Tướng nhà Tống là Trương Thế Kiệt phải phò vua sang tỵ nạn tại Tú
Sơn, rồi lùi về Tỉnh Áo. Khi tới Tỉnh Áo, sóng lớn khiến thuyền bị lật, Tống Đoan Tông rớt
xuống nước, bị bệnh nặng. Ngày Tám tháng Năm năm 1278, ông qua đời ở Cương Châu,
mới tròn mười một tuổi. Triều thần tôn Vệ Vương Bính lên ngôi vua, năm sau, thế cùng
lực kiệt, trong trận Nhai Sơn, quân Tống đại bại, bị tiêu vong gần hết. Lục Tú Phu bèn
cõng Đế Bính nhảy xuống biển tự vẫn. Nhà Tống bị diệt vong!
 Lâm Hải là một thị xã thuộc về Thai Châu, tỉnh Chiết Giang.
 Theo cách tổ chức của quân Mông Cổ thuở ấy, cứ mười người lính có một người cầm
đầu, gọi là thập phu trưởng. Một trăm người có một người cầm đầu gọi là bách phu trưởng,
một ngàn người có người cầm đầu gọi là thiên phu trưởng.
chồng một tháng rồi mới có thể hầu hạ bậc quân tử”. Thiên phu trưởng thấy cô
không đòi chết nữa, bèn chấp thuận lời thỉnh cầu, nhưng vẫn sai nữ tù nhân canh
giữ cô ta. Hôm quân Nguyên rút lui, hắn mang theo cô ta. Khi đi qua rặng Thanh
Phong ở huyện Sơ, Vương thị ngửa mặt lên trời than: “Hôm nay, ta đã có chỗ để
chết rồi”. Liền cắn ngón tay, [lấy máu] viết thơ lên đá, gieo mình vào vách đá mà
chết. Chuyện đã cách nay tám, chín mươi năm, máu trên đá vẫn rõ nét như mới,
chẳng bị mưa gió xóa nhòa. Một Nho sĩ đã làm thơ chê bai rằng:“Khiết chỉ đề thi
tự khả ai, ban ban bác bác thượng thanh đài, đương sơ nhược hữu thi trung ý,
khẳng trục tướng quân mã thượng lai” (Cắn ngón đề thơ buồn gớm nhỉ? Đá rêu
loang lổ phủ xanh rì. Thoạt đầu, nếu đúng như thơ tả, chắc sẽ theo chàng ruổi
ngựa đi). Kẻ đề thơ ấy về sau không có con cái. Đời Nguyên, Dương Liêm Phu
cũng làm thơ vịnh rằng: “Giáp mã ngự đà bách lý trình. Thanh phong hậu dạ
huyết thư hành. Chỉ ưng Lưu Nguyễn đào hoa thủy, bất tự Ba Lăng Hán thủy
thanh” (Cặp kè bên ngựa đường trăm dặm, đêm cuối trăng thanh viết huyết thư,
chỉ nên tận hưởng Thiên Thai thú, Nhạc Dương sông Hán chẳng trong bằng) .
Về sau, Liêm Phu không có con! Một đêm, mộng thấy một người đàn bà nói:
“Ngươi có nhớ bài thơ đề vịnh Vương tiết phụ hay không? Tuy không thể tổn hại
thanh danh của tiết phụ, nhưng đã hủy báng tiết nghĩa, tội ấy rất nặng! Vì thế, trời
dứt đường con cái của ngươi!” Liêm Phu hối hận, tỉnh ngộ, lại đề thơ rằng: “Thiên
tùy địa lão, thiếp tùy binh. Thiên địa vô tình, thiếp hữu tình. Chỉ huyết khiết khai
hà kiều xích. Đài ngân hóa tác tuyết giang thanh. Nguyện tùy tương sắt thanh
trung tử. Bất trục hồ già phách lý sanh. Tam nguyệt tử quy đề đoạn huyết. Thu
phong vô lệ tả ai minh”(Trời già theo đất, thiếp theo quân. Trời đất vô tình, thiếp
hữu tình. Máu cắn ngón tay như ráng đỏ, sông trinh xanh ngắt vết rêu in, nguyện
chết theo chồng cho trọn nghĩa, chẳng ham sống nhục với quân Hồ. Tháng Ba
chim cuốc kêu tan huyết, gió thu khôn cảm nỗi buồn thương). Sau đấy, lại mộng
thấy người đàn bà đến cảm tạ, không lâu sau bèn sanh được một đứa con.
* Quảng Tử Nguyên bị bệnh tim, suốt ngày mơ màng như đang nằm mộng.
Nghe nói có vị lão tăng có thể chữa lành, bèn đến cầu xin. Vị tăng bảo: “Chứng
 Bài thơ này mang ý nghĩa hủy nhục, khinh bạc rất lớn, chê trách Vương Thị đã chịu để
cho viên tướng Mông Cổ kèm cặp trên ngựa dẫn đi cả trăm dặm, đến cuối cùng mới viết
huyết thư liều thân, sao không tiếp tục sống để hưởng lạc thú giống như Lưu Nguyễn vào
chốn thiên thai. Dẫu có liều thân thì thân đã nhơ uế, đâu có trong sạch như nước dòng
Hán Thủy ở Ba Lăng (Ba Lăng là tên gọi cũ của Nhạc Dương).
 Chim cuốc còn gọi là Đỗ Quyên hoặc Tử Quy hoặc Thôi Quy, là một loài chim nhỏ, thân
đen pha xám, đuôi có vằn trắng, thường hay kêu ra rả vào tháng Sáu, tháng Bảy. Tiếng
kêu nghe buồn nẫu ruột. Theo Thục Vương Bản Kỷ, sau khi Vọng Đế bị ép buộc, phải
nhường ngôi, đã hóa thành chim Đỗ Quyên, do nhớ nước cứ kêu não nuột. Người ta tin là
chim cuốc sẽ kêu cho đến khi nứt họng trào hết máu mà chết, cho nên mới có thành ngữ
“tử quy đề huyết” (chim cuốc kêu khóc cho đến khi cạn máu).
bệnh này là do dâm dục quá độ, thủy hỏa chẳng thể giao hội. Phàm những kẻ đắm
đuối mỹ sắc, hoang đàng sắc dục [sẽ mắc bệnh này], gọi là ‘lòng dục do bị cảm
nhiễm từ bên ngoài’. Đêm sâu nằm ngủ, tưởng nhớ mỹ sắc, hoặc mơ thấy giao
hoan trong giấc mộng. Đó gọi là ‘dục vọng sanh từ bên trong’. Hai thứ ấy dây dưa
nhiễm đắm, đều hao tổn nguyên tinh, tăng thêm bệnh tật, tổn hại tánh mạng, ắt sẽ
trở thành chứng bệnh chẳng trị được. Trước hết, hãy gấp nên đoạn trừ hết sạch ý
niệm về sắc trong tâm, sau đấy lại điều dưỡng thân thể, chẳng để cho nguyên tinh
rò rỉ, ắt thận thủy sẽ không đến nỗi tràn xuống dưới mà bị khô cạn, khiến cho can
hỏa chẳng đến nỗi bốc lên trên. Thủy hỏa điều hòa, sẽ dần dần lành bệnh”. Vì thế
nói: “Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ”.
* Đời Tống, Bao Hoằng Trai lúc tám mươi tám tuổi còn được cử làm Xu Mật
Sứ. Tinh thần ông ta mạnh mẽ. Giả Tự Đạo cho rằng ông ta ắt có thuật dưỡng
sanh bèn hỏi ông Bao. Ông Bao đáp: “Tôi có một loại thuốc viên để uống, nhưng
chẳng truyền toa thuốc bí mật”. Tự Đạo vui vẻ xin thuốc. Ông Bao thong thả nói:
“Loại thuốc viên do lão hủ đã uống chính là suốt năm mươi năm ngủ một mình!”
Mọi người hiện diện đều cười to.
* Bồ Đắc Chánh làm tri phủ Hàng Châu. Có cụ già trong vùng là Lý Giác
đến yết kiến. Tuổi cụ đã hơn trăm, sắc mặt tươi tắn. Ông Bồ hỏi về thuật dưỡng
sinh, cụ đáp: “Thuật của tôi rất hết sức giản dị, chỉ là đã sớm tuyệt dục đó thôi”.
* Trương Thúy ở Thái Thương đã ngoài chín mươi, tai tinh, mắt sáng, vẫn
còn có thể vẽ vời. Có người hỏi [cụ có bí quyết gì, cụ Trương] đáp: “Chỉ là cái
tâm tham dục nhạt mỏng, tiết chế dục sự”.
LẬP THỆ
Phát thệ trì giới
* Xưa kia Châu Dụ thường tụ tập thiện hữu, dùng phuơng thức in những tờ
truyền đơn răn dâm để phát cho các xã hữu. Mỗi người nhận một tờ, chia nhau
khuyên lơn mười người khác. Mỗi người đều kính cẩn ghi rõ quê quán, tuổi tác,
tự ký tên họ, đem đốt để bẩm cáo trước Văn Võ nhị đế. Từ đấy về sau, dấy lên
ý niệm, thốt ra lời lẽ, đều chú ý thận trọng, nghiêm ngặt răn nhắc chính mình
chẳng dính dáng chút tà dâm nào! Kẻ chẳng may đã phạm lỗi ấy, ý niệm hổ thẹn,
hối hận vừa nẩy sanh, đã đủ để tiêu trừ lỗi lớn tầy trời! Kẻ may mắn chưa phạm
lỗi ấy, từ nay, kiên quyết khống chế [chính mình], chẳng đến nỗi để ngọc trắng
có vết rạn nhỏ nhoi! Người này kẻ nọ răn nhắc lẫn nhau, từ đầu tới cuối không
thay đổi, lần lượt khuyên bảo rộng rãi, ngõ hầu người đời vĩnh viễn đoạn trừ căn
cội oan nghiệt ấy, đều trở về đường ngay, ắt sẽ công đức tràn trề, mà phước cũng
vô lượng.
* Ông Lạc Quý Hòa bảo:
- Cổ nhân nói ‘muôn điều ác, dâm đứng đầu. Trăm hạnh, hiếu đứng đầu’. Tôi
thường suy xét hai câu nói ấy, mong hiểu thấu rốt ráo ý chỉ của chúng, bèn biết
hai câu ấy [thoạt nhìn dường như] tương phản, nhưng chúng vừa khéo thành tựu
lẫn nhau! Lý trong hai câu ấy có thể luận định như thế này. Đã coi dâm đứng đầu
muôn điều ác, ắt có thể suy ra để biết: “Không dâm đứng đầu trăm hạnh”. Đã coi
hiếu đứng đầu trăm hạnh, ắt có thể suy ra mà biết: “Bất hiếu chính là cội nguồn
của muôn điều ác”. So đi tính lại, chỉ một lời đã đủ, nhưng tách ra thành hai [điều
để nói]. Vì sao? Bởi lẽ, hễ ham dâm, sẽ chẳng thể trọn hiếu. Muốn tròn đạo hiếu,
ắt phải bắt đầu bằng chẳng dâm!
Bậc thánh nhân thời cổ chế định hôn nhân chính vì lẽ ấy. Bày ra mai mối,
lập ra sáu lễ. [Hiểu theo phương diện] nhỏ [thì hôn nhân] cốt yếu là để nối tiếp
dòng dõi, có người cúng tế tổ tiên, sáng tỏ luân thường, giúp cho đức hạnh. [Hiểu
theo phương diện] to lớn thì đó chính là cội rễ để trị quốc, bình thiên hạ. Không
gì chẳng nhằm khiến cho con người được tròn vẹn đạo hiếu từ đầu đến cuối. Vì
thế, nói: “Đạo của bậc quân tử bắt nguồn từ vợ chồng”. Cõi đời lẫn đạo nghĩa
đều suy vi, chẳng hành theo giáo huấn của bậc thánh triết, ý nghĩa cao quý của cổ
nhân mất sạch. Lễ nghĩa trở thành nói suông, coi chuyện vợ chồng như phương
tiện để hưởng dục lạc. Bọn thiếu niên đức nghiệp chưa thành, đã biết hâm mộ sắc
đẹp của lũ gái tơ mơn mởn. Kẻ làm cha mẹ cũng hư vọng chiều theo ý con, để
 Văn Võ Nhị Đế chính là Văn Đế (tức Văn Xương Đế Quân) và Võ Đế (Quan Công).
nhờ vào chuyện đó khiến cho con đẹp lòng. Do vậy, công khai coi chuyện háo
sắc là chuyện chánh đáng trong đời người; lại còn nói khoa trương là “kế tục huyết
thống, nối tiếp dòng dõi”. Bởi đó, tình vợ chồng càng thêm sâu nặng, sự phụng
dưỡng cha mẹ [ngày càng] thiếu sót. Dốc sức đẹp lòng vợ, coi cha mẹ như người
ngoài, mắc tội đại bất hiếu. Chẳng cần nói tới những kẻ nghèo hèn, [ngay như
những kẻ có học thức, sang cả], con trai [vì mê vợ] mà trở mặt với mẹ, [con dâu]
chửi mẹ chồng, đã thành thói thường từ lâu! Tình người khó bề hướng lành, dễ
quen theo thói ác, chính là vì đã coi chuyện vợ chồng là phương tiện để hưởng
dục lạc. Ắt sẽ khiến cho quan niệm tình kiến khác biệt về nam nữ ngày càng sâu,
ý niệm ham ái tham dâm này càng hừng hực! Có mới chán cũ, hễ tiếp xúc bèn
nẩy sanh tình, coi nam nữ trong thiên hạ chẳng qua là công cụ để thỏa mãn dục
lạc cho ta, thói tà dâm dấy động. Ganh ghét nhau, giết chóc lẫn nhau, tổn hại thân
thể, điếm nhục cha mẹ, muôn điều ác ồ ạt dấy lên, trăm hạnh đều phế sạch! Cái
tội bất hiếu không gì nặng hơn!
Xét đến cội nguồn, há chẳng phải là bắt nguồn từ ý niệm dâm dục của vợ
chồng ư? Vì thế, tôi nói “hai câu ấy tuy tương phản mà thật ra là khéo bổ trợ lẫn
nhau”. Kẻ chẳng biết [lẽ này], vẫn cứ muốn gượng ép phân định chữ Dâm thành
tà và chánh. [Làm như vậy], há có thể nói là đã lãnh hội sâu xa ý chỉ của cổ nhân
ư? Kinh [Viên Giác] dạy: “Hết thảy chúng sanh đều do dâm dục mà có tánh
mạng. Dục do ái mà sanh, mạng do dục mà có. Chúng sanh yêu mến tánh mạng,
vẫn là do dục làm gốc. Hãy biết luân hồi có căn bản là Ái”. Kinh còn dạy: “Do
vì dục cảnh, dấy lên sự nghịch thuận. Cảnh trái nghịch cái tâm yêu mến, bèn sanh
lên ganh ghét, tạo các thứ nghiệp. Vì vậy, lại sanh vào địa ngục, ngạ quỷ”.
Do những điều ấy, biết dâm chính là mối họa lớn trong đời người, thoạt ban
đầu, chẳng phân ra tà hay chánh vậy! Nhưng chúng ta kể từ vô thỉ cho tới nay, do
ái dục mà có thân này đã lâu. Tù ngục gia đình đã hình thành, nghiệp căn khó dẹp
trừ! Đức Như Lai thương xót, vẫn mở ra phương tiện, chấp thuận kẻ chẳng ham
tà dâm vẫn được gởi thân nơi hoa sen (kinh Giới Đức Hương dạy: “Chẳng xâm
phạm vợ người khác, sẽ được hóa sanh trong hoa sen”). Ở đây, tôi nói những điều
này, chẳng phải là muốn ép buộc mọi người phải làm chuyện khó thể làm là “tuân
theo chủ nghĩa tuyệt dục nghiêm ngặt”, mà thật sự là vì mong những người cùng
chí hướng biết rõ: Những kẻ tham cầu dục lạc trong chốn khuê phòng, chẳng đoái
hoài đại nghĩa luân thường thì đã là trái nghịch lý, huống hồ những kẻ mặc tình
rong ruổi [thú vui xác thịt] bên ngoài, coi như là chuyện thường tình! Do vậy, suy
ra bèn biết: Tuy tận lực kiêng tà dâm, bất quá vẫn là [vâng giữ] một giới trong
năm giới của Nhân Thừa. Nếu vẫn mặc tình săn đuổi [xác thịt], ắt khó tránh chìm
đắm trong tam đồ ác đạo. Do vậy, phát khởi cảm động [ai nấy dấy lòng] tận sức
phấn chấn tinh thần, trong là giữ vững cội gốc tề gia, ngoài là đoạn dứt cái tâm
tranh giành, theo đuổi [dục vọng], truy tìm căn cội, dốc sức tu hành để mong có
ngày đạt được Nê Hoàn (kinh Phật Bát Nê Hoàn có nói: “Kiêng tà dâm, được tăng
trưởng năm thứ phước, nhập đạo Nê Hoàn”), nhanh chóng thoát khỏi mười tội
(sách Pháp Uyển Châu Lâm nói: “Do tà dâm bèn phạm mười tội”). Đức Phật nói
lời thành thật, chẳng lừa dối ta. Vì thế, hãy quyết định đối trước trời Phật phát thệ,
ước hẹn kiên quyết, dùng lời nguyện ấy để gìn giữ [bản thân chẳng sanh tà niệm,
lời nguyện ấy được] viết rõ ràng ở đây. Những vị Phật tử đang hiện diện tại đây,
ắt sẽ có người đồng tâm, cho nên [trước lời nguyện] tôi viết dông dài mấy câu ngõ
hầu khơi gợi.
Lời thệ nguyện
Nước…. năm… tháng… ngày, đệ tử lập nguyện kiêng tà dâm trai giới tắm
gội, xông hương.
Thắp hương, dâng sớ. Kính cẩn tuyên thệ trước tòa… rằng: Trăm điều
thiện, hiếu trước tiên; muôn điều ác, dâm làm đầu. Người khác cầm thú vì biết
nghĩ suy. Nhạn sống thành bầy trong đầm, còn chẳng cặp đôi bừa bãi. Ta là Phật
tử, há chẳng bằng chim? Kể từ hôm nay, thề kiêng tà dâm, cho đến lúc chết, vĩnh
viễn chẳng đổi lòng. Nếu có trái phạm, ắt thân chuốc họa. Nếu không sửa lỗi, hại
đến cháu con, nhuốm bẩn đại giáo, tội thật chẳng nhẹ! Xin hãy giết chết để khuyên
răn, các vị thần minh hộ pháp từ bi xót thương, xét soi tấm lòng quy hướng, hộ
trì, ngấm ngầm che chở, đời đời vĩnh viễn bảo vệ.
Đệ tử… kính cẩn ký tên
Một là giữ vững giới lực. Tâm tưởng của con người hễ chẳng thiện thì là ác.
Sự hưởng thụ của con người nếu chẳng phải là phước, sẽ là họa. Đạo trời giáng
họa cho kẻ dâm, chẳng giáng tội cho người biết hối cải. Đúng là thoạt đầu mê,
đến cuối cùng ngộ, tai ương sẽ lìa, phước đưa tới. Nhưng sau khi sám hối, thọ giới,
phải dè dặt, cẩn trọng như vào rừng sâu, như bước trên băng mỏng, mãi cho đến
khi mạng chung, sau đó mới có thể thưa với thần minh chính mình vô tội. Nếu
sau khi thọ giới, lại phạm giới, ắt lời thề ở trước, oai linh của thần ở sau, chắc chắn
sẽ mắc họa, chẳng có thuốc chữa. Như mắc bệnh thương hàn vừa đỡ, bèn ăn đồ
huyết nhục, hễ bệnh cũ phát ra, chắc chắn chẳng thể sống được! Chỉ mong những
người có cùng chí hướng, hãy chí tâm quy y, luôn luôn [dè dặt, cẩn trọng như
đang] đối trước thần minh, phút giây nào cũng thường nghĩ đến nỗi họa hoạn.
Người xưa nói: “Một lần [phạm lỗi] là đã quá đáng rồi, há còn tái phạm
ư?” Huống hồ ta đã phát thệ, há giống như trò đùa bỡn của trẻ con ư?
Hai là kiên trì tín tâm. Phàm là những người thọ giới, cần nên biết vận mạng
của mỗi người khác nhau. Như đất có chất màu, trời đổ mưa, sương, vốn chẳng
khác biệt, do người trồng trọt vun quén, mà có cây nghiêng lệch, ngả bóng. Quyền
vun bồi, che chở là do trời, nhưng vun quén, nghiêng lệch thật sự là do ta. Những
 Tùy theo phát thệ trước tượng Phật, Bồ Tát, thần minh nào mà xưng danh vị ấy.
 Nguyên văn “trực chí khải thủ khải túc chi hậu” (mãi chi đến sau khi có thể mở tay,
mở chân ra coi). Thành ngữ này phát xuất từ chương Thái Bá trong sách Luận Ngữ: “Tăng
tử hữu tật, triệu môn đệ viết: Khải dư túc, khải dư thủ” (Tăng Sâm mắc bệnh, gọi các đệ
tử bảo: “Mở áo coi chân ta, mở áo coi tay ta”). Theo các bản chú giải, Tăng Tử luôn rất
cẩn trọng giữ gìn thân thể, không dám tổn thương nhằm giữ trọn đạo hiếu. Khi sắp mất,
ông bảo học trò coi tay và chân mình để chứng tỏ tay chân không bị tổn thương, không
tổn hại đến cái thân do cha mẹ đã ban cho. Từ đó, chữ “khải thủ khải túc” được dùng với
ý nghĩa “chết tốt lành”.
kẻ ác mà hưởng phước phi thường, chưa chắc đã là phước thật sự! Có thể là nhờ
vào điều ấy để khiến cho tai ương càng nặng nề hơn. Nếu không, là do tổ đức
hoặc căn lành sâu dầy đời trước. Người lành vô cớ mắc họa, chưa chắc đã là nỗi
họa thật sự, có thể là nhờ đó để khiến cho sự thành tựu của quý vị càng đẹp đẽ
hơn. Nếu không, [những ương họa ấy] là do túc nghiệp, oan khiên đời trước mà
ra. Chỉ mong người đời nếu gặp thuận cảnh, hãy càng thêm tinh tấn. Nếu gặp phải
nghịch cảnh, hãy càng nên dũng mãnh, kết cục [tốt đẹp hay xấu ác] đều do chính
mình đó thôi!
GIỚI KỲ
Bảo thân lập mạng giới kỳ cập thiên địa nhân kỵ
(Những ngày nên kiêng kỵ hành dâm hòng bảo vệ thân mạng)
Lý “làm lành được thiện, do dâm mắc họa” đã nói tường tận. Ngay như trong
vòng vợ chồng, con người dễ sơ sót nhất. Chẳng biết trong một năm có những
ngày nên đoạn dâm, trai giới. Như trong Nguyệt Lệnh đã nói: Ba ngày trước khi
có sấm (ba ngày trước tiết Xuân Phân), [quan phủ] sai người đánh mõ gỗ tuyên
cáo dân chúng: “Sắp có sấm động, kẻ chẳng kiêng ăn nằm, sẽ sanh con chẳng
lành lặn, ắt gặp tai ương hung hiểm” chính là vì lẽ ấy. Huống hồ khí huyết lưu
hành trong thân người vốn tương ứng với tiết khí trong trời đất. Nếu hành dâm
chẳng đúng thời, ắt chẳng phù hợp thời tiết, sẽ bị thương tinh tổn khí gấp trăm lần
những khi khác. Còn như nhằm dịp thần minh giáng hạ soi xét, nếu dâm ô, mạo
muội khinh nhờn, có kẻ bị khiển trách ngấm ngầm mà chẳng biết. Vì thế, trong
cõi đời có những kẻ do thiếu cẩn trọng, gặp phải [ương họa] rành rành là mắc
bệnh, chết yểu, hoặc gặp họa ngấm ngầm, tức là bị giảm mất tước lộc, giảm thọ,
thường đều là vì lẽ này. Tới lúc ấy, dẫu hối hận, cũng chẳng thể cứu vãn được.
Sao bằng vâng theo kiêng giữ để hối lỗi [ngay từ bây giờ]? Kính cẩn sao lục những
ngày tháng cần phải kiêng dè và những ngày kỵ liên quan đến trời, đất, hoặc con
người. Kẻ đã biết tự yêu thương chính mình, sẽ đều tuân thủ vậy!
Tháng Ngày kiêng Nguyên do Sự báo ứng do
chẳng kiêng dâm
Tháng
Giêng
Mồng Một
Tết Nguyên Đán, Ngọc Đế xem
xét thần, khí, tài lộc, thọ mạng
của con người. Nguyệt Sóc
Giảm tài lộc, giảm
thọ mười hai năm
Mồng Ba Vạn thần nhóm hội - Đẩu
giáng
Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Năm Ngũ Hư kỵ

 Nguyệt Sóc (月朔): ngày mồng Một đầu tháng.
 “Đẩu giáng” (斗降) là thuật ngữ của Đạo giáo, chỉ Bắc Đẩu Tinh Quân giáng trần, tra xét
thiện ác.
 Ngũ Hư là năm thứ bệnh trạng nơi thân thể, tức là mạch nhảy yếu ớt, da lạnh, tiêu chảy
và tiểu nhiều, ăn uống không tiêu, chân khí chẳng đủ.
Mồng Sáu Lục Hao kỵ, Lôi trai nhật (mỗi
tháng giống nhau)
Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Bảy Ngày Thượng Hội
Tổn thọ
Mồng Tám
Vía Ngũ Điện Diêm La Thiên Tử
- Tứ Thiên Vương tuần hành
(mỗi tháng giống nhau)
Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Chín Vía Ngọc Hoàng Thượng Đế Giảm thọ mười hai
năm
Mười Ba Ngày kỵ Dương Công
Mười Bốn
Tam Nguyên Giáng - Tứ
Thiên Vương tuần hành (mỗi
tháng giống nhau)
Giảm thọ mười hai
năm
Mười Lăm
Tam Nguyên Giáng - Thượng
Nguyên Thần Hội– Ngày
Rằm (mỗi tháng giống nhau) –
Giảm thọ mười hai
năm

Lục Hao (六耗) là ngày có thể bị cảm nhiễm bởi sáu thứ bệnh do các yếu tố âm, dương,
sáng, tối, gió, mưa theo Đông Y.
 Đây là một ngày trai giới theo Đạo giáo. Theo họ, vào ngày mồng Sáu mỗi tháng, Cửu
Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn sẽ giáng tra xét thiện ác, nên tín chúng
phải trai giới trong ngày ấy, gọi tắt là Lôi Trai Nhật (雷齋日). Ngày Hội ở đây bắt nguồn từ thời Trương Lăng lập ra Ngũ Đấu Mễ Đạo, “hội nhật” là
ngày Trương Lăng truyền đạo, trao chứng thư công nhận một người là tín đồ nhập đạo.
Do vậy, về sau, Đạo Giáo quy định mỗi năm có ba ngày hội là Thượng Hội, Trung Hội và
Hạ Hội. Trong ngày hôm ấy, các đạo quán sẽ cúng tế, đọc kinh, cũng như cử hành lễ truyền
đạo, hoặc phong cấp cho các đạo sĩ.
 Có nhiều cách giải thích về ngày này. Phổ biến nhất là truyền thuyết cho rằng Dương
công ở đây là Dương Kế Nghiệp, người lãnh đạo dòng họ Dương Gia Tướng lừng danh thời
Bắc Tống. Trong trận chiến tại bãi Kim Sa (thuộc vùng núi Lưỡng Lang), Dương Kế Nghiệp
cho rằng tên gọi này có nghĩa là hai con sói, trong khi họ Dương (杨) của ông trùng âm với
chữ Dương (羊, con dê), rất bất lợi, dặn con em phải đề phòng cẩn thận. Kết quả, trong
trận chiến ấy, Dương Gia Tướng bị mai phục thất lợi. Con trai cả, con trai thứ hai, và con
trai thứ bảy của Dương Kế Nghiệp đều bỏ mạng, con trai thứ tư lưu lạc sang phiên bang,
con trai thứ năm bỏ đi tu. Dân gian lấy ngày Mười Ba tháng Giêng để làm lễ kỷ niệm sự
hy sinh của cha con họ Dương, dần dần hình thành ngày kiêng kỵ.
 Tam Nguyên là Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Đạo giáo tin rằng trong
một năm có ba ngày Rằm lớn (tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Mười), tương ứng với ngày
chủ trì của ba vị đại đế chủ quản là Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan. Những ngày các
Ngài giáng xuống trần gian tra xét thiện ác sẽ gọi là Tam Nguyên Giáng.
 Tức là lễ Thượng Nguyên, thường gọi là Rằm Tháng Giêng.
Tứ Thiên Vương tuần hành (mỗi
tháng giống nhau)
Mười Sáu Tam Nguyên Giáng Giảm thọ
Mười Chín Vía Trường Xuân Chân Nhân
Hai Mươi
Ba
Thần Tam Thi báo cáo - Tứ
Thiên Vương tuần hành (mỗi
tháng giống nhau)
Hai Mươi
Lăm
Ngày Nguyệt Hối (mỗi tháng
giống nhau). Ngày mở kho trời
đất
Giảm thọ, tổn thọ,
con cái bị bệnh tật.
Hai Mươi
Bảy
Đẩu giáng (mỗi tháng giống
nhau)
Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Tám
Các vị nhân thần ngự trong cõi
âm (hãy nên kiêng ăn nằm trước
một ngày)
Bị bệnh
Hai Mươi
Chín
Tứ Thiên Vương tuần hành (mỗi
tháng giống nhau)
 Trường Xuân Chân Nhân chính là Khưu Xứ Cơ (1148-1227), đệ tử thứ hai của Vương
Trùng Dương (tức Vương Triết, sáng tổ của Toàn Chân giáo) trong nhóm Toàn Chân Thất
Tử, và là tổ sư của chi phái Long Môn trong Toàn Chân giáo. Ông rất được các vua nhà
Kim kính trọng, cũng như từng được Thành Cát Tư Hãn mời sang Mông Cổ để hỏi đạo. Ông
có ghi lại cuộc hành trình ấy bằng tác phẩm mang tên Tây Du Ký (ghi chép về những nơi
ông đã đi qua, đặc biệt là những địa danh nổi tiếng của Mông Cổ như hồ Buyur, UlanBator,
Arkhangai v.v..). Tên gọi này đã khiến nhiều người hiểu lầm ông là tác giả của bộ tiểu
thuyết Tây Du Ký kể chuyện Tề Thiên (bộ tiểu thuyết Tây Du Ký do Ngô Thừa Ân viết vào
đời Minh).
 Ngày Nguyệt Hối (月晦) là ngày trăng mờ, tức là do vị trí của địa cầu và mặt trăng,
trong những ngày ấy, hầu như không thể thấy mặt trăng được. Hiểu thông thường, ngày
Ba Mươi mỗi tháng sẽ gọi là Đại Nguyệt Hối vì hoàn toàn không có trăng.
 Đây là một tập tục cổ của người Hoa. Ngày Thiên Địa Thương Khai (天地倉開, kho trời
đất mở) còn gọi là Điền Thương (chứa đầy kho). Vào ngày hôm ấy, nông dân tụ tập nơi
công cộng trong thôn xóm trước khi mặt trời mọc, dùng tro cỏ cây vẽ mấy vòng tròn to,
chính giữa vòng lần lượt bỏ các thứ thóc lúa, lương thực, làm ra vẻ như vừa mới gặt hái
về, rồi đốt pháo, reo hò, với ý nghĩa cầu mùa màng bội thu. Đặc biệt là trong tháng Giêng,
ngày này còn là ngày chính thức trở lại công tác đồng áng.
Ba Mươi
Nguyệt Hối – Tư Mạng báo
cáo (mỗi tháng giống nhau) - Tứ
Thiên Vương tuần hành (tháng
thiếu thì kiêng vào ngày Hai
Mươi Chín)
Giảm thọ
Tháng Hai
Mồng Một Nguyệt Sóc – Vía Nhất Điện
Tần Quảng Vương
Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Hai Vạn thần nhóm họp, vía Phước
Đức Thổ Địa Chánh Thần
Giảm thọ mười hai
năm, mắc họa
Mồng Ba Đẩu giáng, vía Văn Xương Đế
Quân
Giảm tài lộc, giảm
thọ mười hai năm.
Mồng Sáu Lôi Trai Nhật, vía Đông Nhạc
Đế Quân Giảm thọ
Mồng Tám
Thích Ca Mâu Ni Phật xuất gia,
vía Tống Đế Vương, vía
Trương Đại Đế
, Tứ Thiên
Vương tuần hành
Giảm thọ mười hai
năm.
Mười Một Dương công kỵ
Mười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hành
Mười Lăm Thích Ca Mâu Ni Phật bát Niết
Bàn, Nguyệt Vọng, vía Thái
Giảm tài lộc, giảm
thọ mười hai năm.
 Tư Mạng là gọi tắt của Tư Mạng Táo Quân.
 Vị này chính là vị Diêm Vương cai quản điện thứ ba, cai quản Hắc Thằng đại địa ngục
và mười sáu địa ngục nhỏ như địa ngục Xuyên Hiếp (đâm lủng hông), địa ngục Quát Chỉ
(nạo mỡ) v.v…
 Trương Đại Đế là một vị thần dân gian được thiền gia Trung Hoa thờ như thần bảo hộ
đất đai và nhà chùa. Ông húy là Trương Bột, tự Bá Cơ, quê ở Long Dương, Vũ Lăng, sanh
vào đời Tây Hán. Theo truyền thuyết, ông từng vận dụng quân lính cõi âm để đào đường
sông tại làng Thuận Lãnh, huyện Trường An, thuộc quận Ngô Hưng. Sau đó ẩn cư tại Hoành
Sơn. Dân cư nhớ ơn lập miếu thờ sau khi ông mất. Ông được sắc phong tước vương vào
đời Tống. Tống Độ Tông đã truy tặng tước hiệu Chánh Hựu Thánh Liệt Chiêu Đức Xương
Phước Chân Quân.
 Nguyệt Vọng là ngày Rằm.
Thượng Lão Quân, Tứ Thiên
Vương tuần hành
Mười Bảy Vía Đông Phương Đỗ Tướng
Quân
Mười Tám
Vía Tứ Điện Ngũ Quan Vương,
sinh nhật của Chí Thánh Tiên Sư
Khổng Tử
Giảm tài lộc, giảm
thọ mười hai năm
Mười Chín Khánh đản Quán Âm Đại Sĩ Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Mốt Khánh đản Phổ Hiền Bồ Tát
Hai Mươi
Ba Tứ Thiên Vương tuần hành
Hai Mươi
Lăm Ngày Nguyệt Hối Giảm thọ
Hai Mươi
Bảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Tám Nhân thần nhóm họp cõi âm Mắc bệnh
Hai Mươi
Chín Tứ Thiên Vương tuần hành
Ba Mươi
Nguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo
(tháng thiếu thì kiêng vào ngày
Hai Mươi Chín)
Giảm thọ
Tháng Ba Mồng Một Nguyệt sóc – Vía Nhị Điện Sở
Giang Vương
Giảm thọ mười hai
năm Đây là một vị trong các thuộc hạ của Đông Nhạc Đại Đế, thường gọi là Ngũ Đạo Tướng
Quân, chưởng quản sanh tử. Đỗ Tướng Quân chính là Đỗ Bình.
Mồng Ba Đẩu Giáng – Vía Huyền Thiên
Thượng Đế
Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Sáu Lôi Trai Nhật Giảm thọ
Mồng Tám
Vía Lục Điện Biện Thành
Vương - Tứ Thiên Vương tuần
hành
Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Chín Ngưu quỷ thần xuất – Dương
công kỵ
Sanh ác thai
Mười Hai Vía Trung Ương Ngũ Đạo
Mười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hành
Mười Lăm
Nguyệt vọng - vía Huyền Đàn,
vía Hạo Thiên Thượng Đế, Tứ
Thiên Vương tuần hành
Giảm thọ mười hai
năm
Mười Sáu Khánh đản Chuẩn Đề Bồ Tát Giảm thọ mười hai
năm
Mười Tám
Vía Trung Nhạc Đại Đế, vía Hậu
Thổ Nương Nương, Tam Mao
giáng hạ Đây là một vị thần trong Đạo giáo, vốn có tên là Huyền Vũ Đại Đế, chưởng quản phương
Bắc, hàng yêu, phục ma, được tôn xưng là vị thần bảo hộ đất nước, cũng như là một vị
chiến thần bảo hộ vương triều, nên thường được lập điện thờ ở phía Bắc kinh đô. Do
phương Bắc thuộc Thủy (trong ngũ hành, Thủy được coi là màu đen), nên ông còn được
gọi là Hắc Đế. Phương Bắc còn được gọi là Huyền Vũ theo kinh Dịch, nên ông còn có các
danh xưng là Bắc Đế, Chân Vũ (vì nhà Tống kiêng húy chữ Huyền), Bắc Cực Đãng Ma Thiên
Tôn v.v… Hạo Thiên Thượng Đế là danh xưng khác của Ngọc Hoàng Đại Đế. Hậu Thổ Nương Nương chính là nữ thần chưởng quản đất đai trong Đạo giáo, còn gọi
là Địa Mẫu nương nương, Địa Mẫu Nguyên Quân, Hậu Thổ Phu Nhân, Cửu U Tố Nữ v.v… Tam Mao Chân Quân theo truyền thuyết là ba anh em ở Hàm Dương, tức Mao Doanh,
Mao Cố, Mao Trung đắc đạo vào đời Hán, ẩn cư tại Mao Sơn ở Vân Nam. Họ được coi là tổ
sư của phái Mao Sơn trong Đạo giáo.
Hai Mươi Ngày mở kho trời đất, vía Tử
Tôn Nương Nương Tổn thọ
Hai Mươi
Ba Tứ Thiên Vương tuần hành
Hai Mươi
Lăm Ngày Nguyệt Hối Giảm thọ
Hai Mươi
Bảy
Đẩu giáng, vía Thất Điện Thái
Sơn Vương
Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Tám
Nhân thần nhóm họp cõi âm, vía
Thương Hiệt Chí Thánh tiên
Bị bệnh, giảm tài
lộc, giảm thọ mười
hai năm
Hai Mươi
Chín Tứ Thiên Vương tuần hành
Ba Mươi
Nguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,
Tứ Thiên Vương tuần hành
(tháng thiếu thì kiêng vào ngày
Hai Mươi Chín)
Giảm thọ
Tháng Tư
Mồng Một Nguyệt Sóc, vía Bát Điện Đô
Thị Vương
Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Ba Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Bốn Vạn thần thiện hóa, khánh đản
Văn Thù Bồ Tát
xảy thai, thai chết
yểu
Mồng Sáu Lôi Trai Nhật Giảm thọ Tử Tôn Nương Nương là vị thần được coi là có thể ban con cháu cho người thờ phụng.
Tùy theo từng vùng tại Trung Hoa mà có đến hai mươi vị nữ thần được coi là Tử Tôn
Nương Nương như Bảo Đậu Phu Nhân, Kim Hoa Phu Nhân v.v…
 Theo truyền thuyết, Thương Hiệt (蒼頡) là người đã chế ra chữ Hán.
Mồng Bảy Nam Đẩu, Bắc Đẩu, Tây Đẩu
cùng giáng hạ. Dương công kỵ. Giảm thọ
Mồng Tám
Khánh đản Thích Ca Mâu Ni
Phật, Vạn thần thiện hóa. Thiện
Ác đồng tử giáng hạ. Vía Cửu
Điện Bình Đẳng Vương, Tứ
Thiên Vương tuần hành
Giảm thọ mười hai
năm, thai chết yểu,
bị bệnh về máu mà
chết
Mười Bốn Vía Thuần Dương tổ sư, Tứ
Thiên Vương tuần hành Giảm thọ
Mười Lăm Nguyệt vọng, vía Chung Ly tổ
, Tứ Thiên Vương tuần hành Giảm thọ
Mười Sáu Ngày trời đất mở kho Tổn thọ
Mười Bảy Vía Thập Điện Chuyển Luân
Vương
Giảm thọ mười hai
năm
Mười Tám Ngày trời đất mở kho, vía Tử Vi
Đại Đế Giảm thọ
Hai Mươi Vía Nhãn Quang Thánh Mẫu
Hai Mươi
Ba Tứ Thiên Vương tuần hành Thuần Dương tổ sư chính là Lữ Động Tân (Lữ Nham), thầy dạy đạo của Vương Trùng
Dương (sáng tổ Toàn Chân giáo).
 Chung Ly tổ sư, tức là Chung Ly Quyền, tức một vị trong Bát Tiên. Lữ Động Tân học đạo
từ vị này.
 Tử Vi Đại Đế có tên gọi đầy đủ là Trung Thiên Tử Vi Bắc Cực Thái Hoàng Đại Đế, là con
trai thứ của Đẩu Mẫu Nguyên Quân, chưởng quản các tinh tú, phước họa của hoàng gia.
Vị này được coi là một trong Tứ Ngự Tôn Thần của Đạo giáo (Hạo Thiên Chí Tôn Ngọc
Hoàng Thượng Đế, Trung Thiên Tử Vi Bắc Cực, Câu Trần Thượng Cung Thiên Hoàng Đại
Đế, Thừa Thiên Hiệu Pháp Hậu Thổ Địa Kỳ. Vị sau cùng chính là Địa Mẫu). Tông Thiên
Thai và Thiền Tông Trung Hoa cũng xếp vị này vào trong hai mươi bốn vị hộ pháp của
Phật môn.
 Đây là một vị nữ thần trong Đạo giáo chuyên trị bệnh về mắt, được coi là hóa thân của
Bảo Sanh Chân Nhân Hoằng Đức Bích Hà Nguyên Quân (gọi tắt là Thái Sơn Nương Nương,
tức nữ thần núi Đông Nhạc). Nhãn Quang Thánh Mẫu còn gọi là Nhãn Mục Nguyên Quân,
Nhãn Vương Nãi Nãi, Nhãn Quang Thánh Mẫu Huệ Chiếu Minh Mục Nguyên Quân v.v…
Hai Mươi
Lăm Nguyệt Hối Giảm thọ
Hai Mươi
Bảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Tám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnh
Hai Mươi
Chín Tứ Thiên Vương tuần hành
Ba Mươi
Nguyệt Hối, Tư Mạng báo cáo,
Tứ Thiên Vương tuần hành (gặp
tháng thiếu thì kiêng vào ngày
Hai Mươi Chín)
Giảm thọ
Tháng
Năm
Mồng Một Nguyệt sóc, vía Nam Cực
Trường Sanh Đại Đế
Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Ba Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Năm
Địa lạp, Ngũ Đế giảo định
quan tước của con người, ngày
Cửu Độc, Dương Công kỵ
Giảm tài lộc, giảm
thọ mười hai năm,
chết yểu, tai họa bất
ngờ
Mồng Sáu Ngày Cửu Độc, Lôi trai nhật Chết yểu, tai họa bất
ngờ
Mồng Bảy Ngày Cửu Độc Chết yểu, tai họa bất
ngờ
 Còn gọi là Nam Cực Tiên Ông, Nam Cực Lão Nhân, Thọ Tinh, hoặc Thọ Lão Nhân, là một
vị thần chủ trì sự trường thọ. Vị này chính là ông Thọ trong bộ Tam Đa Phước Lộc Thọ.
 Địa Lạp chính là ngày lễ Đoan Ngọ, tức lễ Mồng Năm tháng Năm.
 Ngày Cửu Độc: Dựa theo truyền thuyết dân gian, tháng Năm được coi là tháng độc hại.
Trong tháng ấy, sẽ có chín ngày độc hại nhất, khởi đầu từ ngày Đoan Ngọ. Để trừ độc, dân
chúng uống rượu hùng hoàng, hái cỏ ngải v.v… Đây chính là lúc chuyển mùa từ Xuân sang
Hạ, sâu bọ sanh sôi nhiều, rất dễ bị nhiễm trùng. Khí trời oi bức, con người dễ bị bệnh
nhất.
Mồng Tám Vía Nam Phương Ngũ Đạo, Tứ
Thiên Vương tuần hành Tổn thọ
Mười Một Ngày mở kho trời đất, vía Đô
Thành Hoàng trong thiên hạ Tổn thọ
Mười Hai Vía Bính Linh Công Tổn thọ
Mười Ba Quan Thánh giáng thần Giảm tài lộc, giảm
thọ mười hai năm
Mười Bốn
Tứ Thiên Vương tuần hành, giờ
Tý nửa đêm là lúc trời đất giao
hòa
Trong vòng ba năm
vợ chồng đều chết
Mười Lăm Nguyệt vọng, ngày Cửu Độc, Tứ
Thiên Vương tuần hành
Chết yểu, tai họa bất
ngờ
Mười Sáu Ngày Cửu Độc, ngày nguyên khí
tạo hóa vạn vật trong trời đất
Trong vòng ba năm
vợ chồng đều chết
Mười Bảy Ngày Cửu Độc Chết yểu, tai họa bất
ngờ
Mười Tám Vía Trương thiên sư
Hai Mươi
Hai Vía Hiếu Nga thần Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Ba Tứ Thiên Vương tuần hành
 Bính Linh Công còn gọi là Bính Linh Đế Quân hoặc Bính Linh Nhân Huệ Vương, hoặc
Lôi Hỏa Đô Nguyên Soái Thống Nhiếp Tam Sơn Bính Linh Nhân Huệ Đế Quân. Theo truyền
thuyết, ông là con thứ ba của Đông Nhạc Đại Đế. Ông là thần sấm, thần núi và thần hộ
pháp trong Đạo giáo. Trương thiên sư chính là Trương Lăng (34-156), người sống vào thời Đông Hán, thuộc
huyện Phong (nay là thành phố Từ Châu, tỉnh Giang Tô), sáng tổ của Đạo giáo. Phái Đạo
giáo của ông được gọi là Chánh Nhất, hoặc Thiên Sư Đạo. Con cháu ông vẫn tiếp tục giữ
ngôi vị thiên sư cho đến hiện thời. Đời thứ sáu mươi bốn là Trương Nguyên Tiên (1931-
2008). Ngôi vị thiên sư hiện đang bỏ trống vì con cháu họ Trương ở Đại Lục và Đài Loan
đang tranh giành ráo riết ngôi vị này.
Hai Mươi
Lăm
Ngày Cửu Độc, ngày Nguyệt
Hối
Chết yểu, tai họa bất
ngờ
Hai Mươi
Sáu Ngày Cửu Độc Chết yểu, tai họa bất
ngờ
Hai Mươi
Bảy Ngày Cửu Độc, Đẩu giáng Chết yểu, tai họa bất
ngờ
Hai Mươi
Tám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnh
Hai Mươi
Chín Tứ Thiên Vương tuần hành
Ba Mươi
Nguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,
Tứ Thiên Vương tuần hành
(tháng thiếu thì kiêng vào ngày
Hai Mươi Chín) * Xét ra, tháng
này kiêng [sắc dục] trọn tháng
thì hơn
Giảm thọ
Tháng Sáu
Mồng Một Nguyệt Sóc Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Ba Đẩu giáng, Dương công kỵ Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Bốn Nam Thiệm Bộ Châu chuyển đại
pháp luân Tổn thọ
Mồng Sáu Ngày mở kho trời đất, Lôi trai
nhật Tổn thọ
Mồng Tám Tứ Thiên Vương tuần hành
Mồng Mười Khánh đản Kim Túc Như Lai
Cư sĩ Duy Ma Cật là hóa thân của Kim Túc Như Lai.
Mười Ba Vía Tỉnh Tuyền Long Vương
Mười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hành
Mười Lăm Nguyệt vọng, Tứ Thiên Vương
tuần hành
Giảm thọ mười hai
năm
Mười Chín Quán Âm Đại Sĩ Niết Bàn (ngày
thành đạo)
Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Ba
Vía Nam Phương Hỏa Thần, Tứ
Thiên Vương tuần hành Bị trùng tang
Hai Mươi
Bốn Vía Lôi Tổ, vía Quan Đế Giảm tài lộc, giảm
thọ mười hai năm
Hai Mươi
Lăm Ngày Nguyệt Hối Giảm thọ
Hai Mươi
Bảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Tám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnh
Hai Mươi
Chín Tứ Thiên Vương tuần hành
Ba Mươi
Nguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,
Tứ Thiên Vương tuần hành
(tháng thiếu thì kiêng vào ngày
Hai Mươi Chín)
Giảm thọ

 Tỉnh Tuyền Long Vương: Người Hoa và người Ấn tin mỗi chỗ có nước đều có long vương
cai quản. Sông, rạch, hồ, suối, ao, đầm, chằm, khe, ngòi, giếng v.v… đều có long vương cai
quản. Ở đây chỉ nói là Tỉnh Tuyền Long Vương (long vương cai quản giếng, suối) để phiếm
chỉ các vị long vương.
 Lôi Tổ tức là Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn. Vị này là con trai
thứ chín của Nguyên Thỉ Thiên Tôn, và cũng là Hiên Viên Hoàng Đế sau khi xả thân hóa
thành. Ông chủ quản Lôi Bộ trông coi về sấm sét của Thiên Đình, thường xuống nhân gian
vào mồng Sáu mỗi tháng để tra xét thiện ác, ngày hôm đó được gọi là Lôi Trai Nhật.
Tháng Bảy
Mồng Một Nguyệt sóc, Dương công kỵ Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Ba Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Năm Ngày Trung Hội (có khi coi là
ngày mồng Bảy) Tổn thọ
Mồng Sáu Lôi trai nhật Giảm thọ
Mồng Bảy
Đạo Đức Lạp, Ngũ Đế so sánh
thiện ác của con người, vía Khôi
Tinh
Giảm lộc, giảm thọ
mười hai năm
Mồng Tám Tứ Thiên Vương tuần hành
Mồng Mười Ngày âm độc, đại kỵ
Mười Hai Vía Trường Chân Đàm chân
nhân
Đạo Đức Lạp là một trong năm ngày trai giới cúng tế của Đạo giáo (thiên lạp, địa lạp,
đạo đức lạp, dân tuế lạp và vương hầu lạp), được quy định vào ngày mồng Bảy tháng Bảy.
Họ tin vào ngày này Ngũ Đế sẽ hội tụ bảy loại khí ở phương Tây để tra xét thiện ác của
nhân gian. Tín chúng nên trai giới, mở trai đàn cầu phước, siêu tiến tổ tiên. Ngũ Đế ở đây
chính là Ngũ Nhạc Đại Đế tức năm vị thần chưởng quản năm ngọn núi lớn của Trung Hoa,
quản sự sanh tử, thiện ác của toàn thể Trung Hoa, gồm Đông Nhạc Thái Sơn Thiên Tề Nhân
Thánh đại đế, Tây Nhạc Hoa Sơn Kim Thiên Nguyện Thánh đại đế, Nam Nhạc Hành Sơn
Tư Thiên Chiêu Thánh đại đế, Bắc Nhạc Hằng Sơn Anh Thiên Huyền Thánh đại đế và Trung
Nhạc Tung Sơn Trung Thiên Sùng Thánh đại đế.
145 Khôi Tinh chính là sao Khuê. Ngôi sao này được thần cách hóa thành Đại Khôi Tinh
Quân, trông coi về mạng vận, văn tài trong thi cử và văn bút nói chung của Nho sĩ. Trong
thiên văn, Khuê Tinh (Khôi Tinh) gồm bốn vị sao trong tòa sao Bắc Đẩu, tức sao Thiên Xu
(Dubhe), Thiên Toàn (Merak), Thiên Cơ (Phecda) và Thiên Quyền (Megrez). Đôi khi người
ta lầm lẫn sao Khuê với sao Văn Xương (vì Văn Xương Đế Quân cũng chủ trì khoa cử). Thật
ra, sao Văn Xương thuộc chùm sao Tử Vi. Tinh tòa Tử Vi có rất nhiều nhóm sao, chẳng hạn
Bắc Cực, Tứ Phụ, Thiên Ất, Thái Ất, Âm Đức, Nữ Sử v.v… Nói cách khác, Văn Xương chính
là chòm sao Đại Hùng (Ursa Major).
146 Đàm Chân Nhân chính là Đàm Xứ Đoan, là một trong bảy vị đại đệ tử (Toàn Chân Thất
Tử) của Vương Trùng Dương. Ông tên thật là Đàm Ngọc, tự Bá Ngọc, quê ở Ninh Hải, tỉnh
Sơn Đông. Khi ông bị bệnh, nghe danh Trùng Dương bèn đến xin chữa trị. Vương Trùng
Dương đóng cửa không tiếp, ông kiên trì cầu thỉnh ngoài cửa suốt đêm, cửa bỗng dưng mở
ra. Vương Trùng Dương cho là ông có duyên với đạo, gọi vào trò chuyện, bàn lẽ huyền
nhiệm trong Đạo giáo. Tới sáng, bệnh của Đàm Ngọc tự dưng khỏi hẳn. Ông bèn xin theo
hầu, Vương Trùng Dương bèn đặt đạo hiệu là Xứ Đoan, đạo tự là Thông Chánh, biệt tự là
Trường Chân. Ông đảm nhiệm chức chưởng môn đời thứ ba của Toàn Chân. Môn đệ của
Mười Ba Khánh đản Đại Thế Chí Bồ Tát Giảm thọ
Mười Bốn Tam Nguyên giáng, Tứ Thiên
Vương tuần hành Giảm thọ
Mười Lăm
Nguyệt vọng, Tam Nguyên
giáng, Địa quan tra sổ, Tứ Thiên
Vương tuần hành
Giảm thọ mười hai
năm
Mười Sáu Tam Nguyên Giáng Giảm thọ mười hai
năm
Mười Tám Vía Tây Vương Mẫu
 Giảm thọ mười hai
năm
Mười Chín Vía Thái Tuế
 Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Hai Vía Tăng Phước Tài Thần
 Giảm tài lộc, giảm
thọ mười hai năm

ông thành lập chi phái Nam Vô của Toàn Chân giáo. Sau khi ông mất, đồ chúng tôn xưng
ông là Huyền Đức Ôn Đức Chân Quân, Nguyên Thế Tổ sắc phong là Trường Chân Vân Thủy
Ôn Đức Chân Nhân.
 Tây Vương Mẫu có thể coi như là chúa của tất cả các vị tiên. Bà có tên gọi đầy đủ là
Bạch Ngọc Quy Đài Cửu Phụng Thái Chân Tây Vương Mẫu, hoặc gọi gọn là Kim Mẫu Nguyên
Quân, Diêu Trì Kim Mẫu (các phái Đạo giáo về sau, nhất là Minh Sư Đạo, thường gọi bà là
Diêu Trì Phật Mẫu). Bà được coi là vị nữ thần do khí hỗn độn ban sơ kết thành. Theo Cát
Hồng, khi vũ trụ còn hỗn độn, Nguyên Thỉ Thiên Tôn (tức Bàn Cổ Chân Nhân) tách rời trời
đất, ngự ở trung tâm trời đất gọi là Ngọc Kinh Sơn. Đạo khí kết thành một vị tôn thần tên
là Thái Nguyên Thánh Mẫu. Nguyên Thỉ Thiên Tôn lấy Thái Nguyên Thánh Mẫu sanh ra
Thiên Hoàng Phù Tang Đại Đế và Tây Vương Mẫu. Nguyên Thỉ Thiên Tôn cho bà ngự tại
núi Côn Luân, chưởng quản vạn linh, chưởng quản chư vị tiên nữ. Có những sách như
Phong Thần Diễn Nghĩa, Thần Tiên Truyện, Vạn Thế Chân Tiên Thể Đạo Thông Giám lại
coi bà là vợ của Hạo Thiên Thượng Đế, sanh ra hai mươi bốn công chúa
 Theo Đạo giáo, có tất cả sáu mươi vị thần lần lượt chưởng quản nhân gian mỗi năm.
Sáu mươi vị thần ấy tương ứng với chu kỳ sáu mươi năm của một Hoa Giáp (tức là mười
Thiên Can phối hợp với mười hai Địa Chi thành sáu mươi năm). Tùy theo vũ khí hoặc dụng
cụ cầm trong tay của mỗi vị thần ấy (thường gọi là Trị Niên Thái Tuế hoặc Tuế Quân) mà
người ta có thể dự đoán tình hình trong năm ấy. Chẳng hạn như năm Mậu Thìn, Thái Tuế
là Triệu Đạt đại tướng quân, mang hình rồng, hai tay cầm rồng, năm Quý Dậu, Thái Tuế là
Khang Chí đại tướng quân, có hình gà, tay cầm cờ lệnh v.v…
149 Vị thần này chủ quản về tiền tài, tài sản, có tên gọi đầy đủ là Tăng Phước Chí Thiện
Bình Thí Chân Quân, hoặc gọi gọn là Tăng Phước Tướng Công. Theo truyền thuyết, ông tên
thật là Lý Quỷ Tổ, người huyện Truy Xuyên thời Bắc Ngụy. Từng làm huyện lệnh huyện
Khúc Lương dưới thời Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế, nổi tiếng liêm khiết, chánh trực, yêu dân
như con, thường đem hết bổng lộc của chính mình thí cho dân nghèo. Do vậy, sau khi mất,
Hai Mươi
Ba Tứ Thiên Vương tuần hành
Hai Mươi
Lăm Nguyệt Hối Giảm thọ
Hai Mươi
Bảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Tám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnh
Hai Mươi
Chín
Dương công kỵ, Tứ Thiên Vương
tuần hành
Ba Mươi
Khánh đản Địa Tạng Bồ Tát,
Nguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,
Tứ Thiên Vương tuần hành
(tháng thiếu thì kiêng vào ngày
Hai Mươi Chín)
Giảm thọ mười hai
năm
Tháng
Tám
Mồng Một Nguyệt Sóc, vía Hứa Chân
Quân
Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Ba Đẩu giáng, vía Bắc Đẩu, vía Tư
Mạng Táo Quân
Giảm tài lộc, giảm
thọ mười hai năm, bị
hỏa hoạn

ông được dân chúng lập miếu thờ. Nói về chức trách của ông, có hai thuyết: Một, ông là
thuộc hạ của Đông Nhạc Đế Quân chuyên phán đoán công và tội của người vừa mất, hai là
tính toán công đức của người đã chết để quyết định phước báo đời sau của người đó.
Nhưng ông thường được thờ như là một vị Văn Tài Thần trong số các tài thần.
 Hứa Chân Quân tên thật là Hứa Tôn (239-374), tự là Kính Chi, là một đạo sĩ nổi danh
đời Tấn. Ông quê ở huyện Nam Xương, được tôn xưng là tổ sư của phái Lư Sơn và Tịnh
Minh Đạo của Đạo giáo. Thuở trẻ ông thích săn bắn. Có lần đuổi nai, thấy nai mẹ lấy thân
mình che cho con khi hai mẹ con rơi xuống núi, bèn cảm ngộ, bỏ săn bắn, theo Ngô Mãnh
học đạo. Ông từng làm huyện lệnh huyện Thắng Dương (do vậy, Đạo giáo đôi khi gọi ông
là Thắng Dương Tổ Sư). Sau khi tám vương gia dấy loạn, ông từ quan, chuyên tâm truyền
đạo, hướng dẫn dân chúng sửa sang đê điều, nắn dòng sông để ngừa lũ lụt, nhất là tại vùng
Dự Chương, Hồ Quảng, Phước Kiến v.v… Ông cũng được coi là người có công trấn tà, trừ
các loài thủy quái như giao long giúp dân.
Mồng Năm Vía Lôi Thanh Đại Đế Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Sáu Lôi trai Giảm thọ
Mồng Tám Tứ Thiên Vương tuần hành
Mồng Mười Vía Bắc Đẩu Đại Đế
Mười Hai Vía Tây Phương Ngũ Đạo
Mười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hành
Mười Lăm
Nguyệt vọng, Thái Âm triều
nguyên (hãy nên thắp hương,
thức đêm), Tứ Thiên Vương tuần
hành
Chết đột ngột
Mười Sáu Thiên Tào Lược Loát Chân
Quân
giáng hạ Nghèo nàn, chết yểu
Mười Tám
Ngày trời người tăng phước (hãy
nên trai giới, nghĩ tới chuyện tốt
lành)
Hai Mươi
Ba
Tứ Thiên Vương tuần hành, vía
Hán Hoàn Hầu Trương Hiển
Vương
Hai Mươi
Bốn Vía Táo Quân phu nhân
Hai Mươi
Lăm Ngày Nguyệt Hối Giảm thọ

 Vị này chính là Lôi Tổ đã được đề cập trong phần chú thích trước.
 Đây là một vị thần trong Đạo giáo chuyên đảm bảo tài sản của con người đúng với vận
mạng đã định. Nếu ai có tài sản vượt quá số lượng đã định sẵn trong mạng, vị thần này sẽ
tước đoạt bớt. Vì thế gọi là Lược Loát (掠刷, đoạt lấy, giảm trừ). Vị này còn gọi là Lượt
Loát Sứ hoặc Lược Loát Đại Phu.
 Vị này chính là Trương Phi (người kết nghĩa với Lưu Bị và Quan Vân Trường), ông được
phong là Hán Hoàn Hầu.
Hai Mươi
Bảy
Đẩu giáng, vía Chí Thánh Tiên
Sư Khổng Tử, Dương công kỵ
Giảm tài lộc, giảm
thọ mười hai năm
Hai Mươi
Tám
Nhân thần nhóm họp cõi âm, tứ
thiên họp mặt nghị sự Bị bệnh
Hai Mươi
Chín Tứ Thiên Vương tuần hành
Ba Mươi
Nguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,
Tứ Thiên Vương tuần hành, chư
thần tra xét (tháng thiếu thì kiêng
vào ngày Hai Mươi Chín)
Giảm thọ
Tháng
Chín
Mồng Một
Nguyệt sóc, vía Nam Đẩu, từ
mồng Một đến mồng Chín, chín
vị tinh quân thuộc Bắc Đẩu
giáng hạ (trong chín ngày này
đều nên kiêng hành dâm)
Giảm lộc, giảm thọ
mười hai năm.
Mồng Ba Vía Ngũ Ôn Thần
Mồng Tám Tứ Thiên Vương tuần hành
Mồng Chín
Vía Đẩu Mẫu
, vía Phong Đô
Đại Đế, Huyền Thiên Thượng
Đế phi thăng
Giảm lộc, giảm thọ
mười hai năm.

 Nam Đẩu là tinh tòa sáu ngôi thuộc tinh hệ Nhân Mã (Sagittarius). Nam Đẩu gồm có
Thiên Sát (Polis), Thiên Tướng (Kaus Borealis), Thiên Đồng (Nanto), Thiên Cơ (Nunki),
Thiên Lương (Hecatebolus), và Thiên Phủ (Ascella). Đạo giáo coi sáu ngôi sao này là hóa
thân của Nam Đẩu Tinh Quân, và cho là Bắc Đẩu chủ tử, Nam Đẩu chủ sinh. Bắc Đẩu cũng
có hình giống cái gáo gồm bảy ngôi sao (Thiên Cơ, Thiên Tuyền, Thiên Quyền, Thiên Xu,
Ngọc Xung, Khai Dương và Dao Quang).
 Còn gọi là Ngũ Ôn Sứ Giả, là những vị thần chuyên giáng ôn dịch, bao gồm Xuân Ôn
Trương Nguyên Bá, Hạ Ôn Lưu Nguyên Đạt, Thu Ôn Triệu Công Minh, Đông Ôn Chung Sĩ
Quý, và Tổng Quản Trung Ôn Sử Văn Nghiệp. Ôn dịch tức là bệnh truyền nhiễm cấp thời,
đặc biệt là khi chuyển mùa.
 Đẩu Mẫu Nguyên Quân là một vị nữ thần được coi là mẹ của các vị tinh quân thuộc sao
Bắc Đẩu. Theo các nhà nghiên cứu, vị này chính là biến thể trong Đạo giáo của Ma Lợi Chi
Thiên từ Phật giáo. Về sau, bà còn được coi là mẹ của Bắc Cực Tử Vi Đại Đế và Câu Trần
Đại Đế, nên thường gọi là Cửu Hoàng Đại Đế Chi Mẫu.
 Phong Đô Đại Đế còn gọi là Phong Đô Gia, cai quản Thập Điện Diêm Quân và Ngũ Phương
Quỷ Đế, tức là người thống trị địa ngục trong Đạo giáo, có chức trách bảo toàn sự thuận
lợi cho người sống, duy trì trật tự trong cõi âm. Vai trò của vị này hẹp hơn Đông Nhạc Đại
Mồng Mười Đẩu Mẫu giáng hạ Giảm thọ mười hai
năm
Mười Một Nên kiêng cử
Mười Ba Vía Mạnh Bà tôn thần
Mười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hành
Mười Lăm Nguyệt vọng, Tứ Thiên Vương
tuần hành
Giảm thọ mười hai
năm
Mười Bảy Vía Kim Long tứ đại vương Bị tai nạn về nước
Mười Chín
Nhật Cung Nguyệt Cung hội
hợp, Quán Thế Âm Bồ Tát xuất
gia
Giảm thọ
Hai Mươi
Ba Tứ Thiên Vương tuần hành
Hai Mươi
Lăm Nguyệt Hối, Dương công kỵ Giảm thọ
Hai Mươi
Bảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Tám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnh
Hai Mươi
Chín Tứ Thiên Vương tuần hành

Đế, đóng vai trò phụ tá cho Đông Nhạc Đại Đế chuyên quản trị địa phủ, trong khi Đông
Nhạc chưởng quản mọi chuyện trong cõi âm.
 Mạnh Bà là vị thần theo Đạo giáo chuyên đảm nhiệm công việc khiến cho người ta quên
hết chuyện đời trước khi đi đầu thai. Bà ở bên cầu Nại Hà, chế thuốc, thêm vào nước sông
Vong Xuyên, tạo thành một thứ canh có đủ năm vị, gọi là Mạnh Bà Thang (canh của Mạnh
Bà, ta quen gọi là “cháo lú”). Khi quỷ hồn được Thập Điện Chuyển Luân Vương cho đi đầu
thai, quỷ sứ sẽ dẫn hồn đến cầu Nại Hà để Mạnh Bà cho uống cháo lú rồi mới đi đầu thai.
Ba Mươi
Khánh đản Dược Sư Lưu Ly
Quang Phật, Nguyệt Hối – Tư
Mạng báo cáo, Tứ Thiên Vương
tuần hành (tháng thiếu thì kiêng
vào ngày Hai Mươi Chín)
Bệnh nguy ngập,
giảm thọ
Tháng
Mười
Mồng Một Nguyệt Hối, Dân Tuế lạp, Tứ
Thiên Vương giáng hạ
Giảm thọ, chết trong
vòng một năm
Mồng Ba Đẩu giáng, vía Tam Mao Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Năm Ngày Hạ Hội, khánh đản tổ sư
Đạt Ma Tổn thọ
Mồng Sáu Thiên tào khảo sát Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Tám
Ngày Phật nhập Niết Bàn, đại kỵ
sắc dục, Tứ Thiên Vương tuần
hành
Mồng Mười Tứ Thiên Vương giáng hạ Trong vòng một
năm sẽ chết
Mười Một Nên kiêng sắc dục
Mười Bốn Tam Nguyên giáng, Tứ Thiên
Vương tuần hành Giảm thọ
Mười Lăm
Nguyệt vọng, Tam Nguyên
giáng, Hạ Nguyên Thủy Phủ
kiểm sổ sách, Tứ Thiên Vương
tuần hành
Giảm thọ mười hai
năm
Mười Sáu Tam Nguyên giáng
Hai Mươi
Ba
Dương công kỵ, Tứ Thiên Vương
tuần hành
Hai Mươi
Lăm Ngày Nguyệt Hối Giảm thọ
Hai Mươi
Bảy
Đẩu giáng, Bắc Cực Tử Vi Đại
Đế giáng hạ
Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Tám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnh
Hai Mươi
Chín Tứ Thiên Vương tuần hành
Ba Mươi
Nguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,
Tứ Thiên Vương tuần hành
(tháng thiếu thì kiêng vào ngày
Hai Mươi Chín)
Giảm thọ
Tháng
Mười Một
Mồng Một Nguyệt Sóc Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Ba Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Bốn Vía Chí Thánh Tiên Sư Khổng
Tử
Giảm lộc, giảm thọ
mười hai năm
Mồng Sáu Vía Tây Nhạc Đại Đế Giảm lộc, giảm thọ
mười hai năm
Mồng Tám Tứ Thiên Vương tuần hành
Mười Một Ngày trời đất mở kho, vía Thái
Ất Cứu Khổ Thiên Tôn
Giảm thọ mười hai
năm
Mười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hành
 Còn gọi là Thái Ất Thiên Tôn, Thanh Huyền Thượng Đế, Thanh Hoa Đại Đế, Tầm Thanh
Cứu Khổ Thiên Tôn, hoặc Thập Lực Cứu Khổ Thiên Tôn v.v… Ông ngự trong Diệu Nghiêm
Cung thuộc thế giới Trường Lạc ở phương Đông, tiếp độ vong hồn chịu khổ. Do vậy, ông
thường được cầu đảo trong các dịp Thanh Minh, Rằm tháng Bảy, Trùng Dương v.v…
Mười Lăm
Nguyệt vọng, Tứ Thiên Vương
tuần hành
Phạm dâm vào nửa đầu đêm Nam chết
Phạm dâm vào nửa cuối đêm Nữ chết
Mười Bảy Khánh đản A Di Đà Phật
Mười Chín Vía Thái Dương Nhật Cung Tai họa oái ăm
Hai Mươi
Mốt Dương công kỵ Tuyệt tự
Hai Mươi
Ba
Vía Trương Tiên, Tứ Thiên
Vương tuần hành
Hai Mươi
Lăm
Lược Loát Đại Phu giáng hạ,
ngày Nguyệt Hối Đại hung
Hai Mươi
Sáu Vía Bắc Phương Ngũ Đạo
Hai Mươi
Bảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Tám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnh
Hai Mươi
Chín Tứ Thiên Vương tuần hành
Ba Mươi
Nguyệt Hối – Tư Mạng báo cáo,
Tứ Thiên Vương tuần hành
(tháng thiếu thì kiêng vào ngày
Hai Mươi Chín)
Giảm thọ

 Trương Tiên còn gọi là Tống Tử Trương Tiên, là một vị nam thần trong Đạo giáo có thể
ban cho người cầu đảo con cái giống như Tống Tử Nương Nương, Kim Hoa Phu Nhân v.v…
Ông thường được biết đến như một vị thần bảo hộ trẻ nhỏ.
Tháng
Chạp
Mồng Một Nguyệt Sóc Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Ba Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Mồng Sáu Ngày mở kho trời đất, Lôi trai
nhật Giảm thọ
Mồng Bảy Lược Loát Đại Phu giáng hạ Bệnh ngặt
Mồng Tám
Vương hầu lạp, ngày Thích Ca
Như Lai thành Phật, Tứ Thiên
Vương tuần hành, ngày Mậu
trong mười ngày đầu tiên
Giảm thọ mười hai
năm
Mười Hai Thái Tố Tam Nguyên
Quân--ntriều chân
Mười Bốn Tứ Thiên Vương tuần hành
Mười Lăm Nguyệt vọng, Tứ Thiên Vương
tuần hành
Giảm thọ mười hai
năm
Mười Sáu Vía Nam Nhạc Đại Đế
Mười Chín Dương công kỵ
Hai Mươi Thiên địa giao đạo Rút ngắn tuổi thọ
Hai Mươi
Mốt
Ngày vía Thiên Do Thượng
 Thái Tố Tam Nguyên Quân là một nữ thần trong Đạo giáo, là mẹ của Tam Tố Nguyên
Quân (Tử Tố, Hoàng Tố và Bạch Tố). Đạo giáo nói bà từ hư không kết thành hình, sanh
trên hoa trong cõi trời Cao Thượng Thượng Thanh Bảo Tố Cửu Huyền Ngọc Hoàng Thiên.
 Thiên Do Thượng Đế là một trong Bắc Cực Tứ Thánh của Đạo giáo, tức là bốn vị chân
quân ở phương Bắc. Bắc Cực Tứ Thánh bao gồm Thiên Bồng Đại Nguyên Soái Chân Quân,
Thiên Do Phó Nguyên Soái Chân Quân, Dực Thánh Bảo Đức Trừ Khánh Chân Quân và Chân
Vũ Linh Ứng Hựu Thánh Chân Quân. Bốn vị này là thuộc hạ của Bắc Đế.
Hai Mươi
Ba
Thần ngũ nhạc giáng hạ, Tứ
Thiên Vương tuần hành
Hai Mươi
Bốn
Táo Quân chầu trời tâu điều
thiện lẽ ác của nhân gian Đại họa
Hai Mươi
Lăm
Tam Thanh, Ngọc Đế cùng
giáng hạ khảo sát thiện ác.
Hai Mươi
Bảy Đẩu giáng Giảm thọ mười hai
năm
Hai Mươi
Tám Nhân thần nhóm họp cõi âm Bị bệnh
Hai Mươi
Chín
Khánh đản Hoa Nghiêm Bồ Tát,
Tứ Thiên Vương tuần hành
Ba Mươi Chư thần giáng hạ xem xét thiện
ác
Phạm lỗi hành dâm
thì nam lẫn nữ đều
chết
Nhận định: Trong Giới Kỳ trên đây, mỗi năm có tất cả hai trăm hai mươi
lăm ngày, tháng Nhuận tính theo tháng trước đó, đều là những ngày nhất định
trong một tháng.
(1) Tháng có Xuân Phân và Thu Phân
a. Tiết Xuân Phân: Sắp có tiếng sấm. Kẻ phạm dâm sẽ sanh con chẳng đầy
đủ ngũ quan, tứ chi chẳng toàn vẹn. Cha mẹ gặp tai nạn. Hãy nên kiêng dục kể từ
tiết Kinh Trập. Kiêng hơn một tháng.
b. Tiết Thu Phân: Sát khí
rất thịnh, dương khí ngày một suy. Hãy nên
kiêng dục kể từ tiết Bạch Lộ, kiêng hơn một tháng.

 Tam Thanh (三清) là ba cõi trời cao nhất trong Đạo giáo, tức Thượng Thanh, Thái Thanh
và Ngọc Thanh. Nhưng khi nói đến Tam Thanh, ta thường hiểu là ba vị thánh nhân
(Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn (Lão Tử) và Ngọc
Thanh Nguyên Thỉ Thiên Tôn) của ba cõi trời ấy, đồng thời là đấng sáng tạo vũ trụ. Đứng
đầu trong ba vị ấy chính là Ngọc Thanh Nguyên Thỉ Thiên Tôn. Có thể hiểu đơn giản như
sau: Vũ trụ là một khí, từ một khí tách thành ba nguyên tố chánh yếu, được thần cách hóa
thành Tam Thanh.
 Trời bắt đầu vào thu, cây cối rụng lá, tiêu điều, nên gọi là Sát Khí.
Ba ngày trước và ba ngày sau hai tiết khí ấy, cộng thành bảy ngày. Phạm
hành dâm trong những ngày ấy, ắt mắc bệnh ngặt nghèo, càng phải nên kiêng dè
nghiêm ngặt.
(2) Tháng có Đông Chí và Hạ Chí
a. Hạ Chí: Âm Dương tranh chấp nhau, là lúc tử sanh tách rời, hãy nên kiêng
dục kể từ tiết Mang Chủng, kiêng hơn một tháng.
b. Đông Chí: Là lúc Âm Dương tranh nhau, sanh tử tách lìa. Hãy nên kiêng
dục kể từ tiết Đại Tuyết, kiêng hơn một tháng.
Hai tiết khí này là lúc Âm Dương dứt nối chuyển tiếp, cấm kỵ dâm sự nhất.
Ba ngày trước và ba ngày sau hai tiết ấy, tổng cộng là bảy ngày, hễ phạm dục sự,
nhất định sẽ bị bệnh nguy kịch, hãy càng nên răn dè.
- Vào tiết Đông Chí, lúc nửa đêm, sau ngày Canh Tân, nhằm ngày Tuất thứ
ba, nếu phạm dâm đều sẽ chết trong vòng một năm!
- Ngày Tam Nguyên (Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Bảy, Rằm tháng Mười),
phạm dâm sẽ bị giảm thọ năm năm.
- Vào ngày Tứ Lập (Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông), Tứ Ly (Đông
Chí, Hạ Chí, Xuân Phân, Thu Phân), Tứ Tuyệt (ngày trước những ngày thuộc Tứ
Lập), Nhị Xã 
, hễ phạm dâm đều giảm thọ năm năm.
- Thọ thai trong ngày Xã Nhật, râu tóc bạc trắng.
- Vào ngày tam phục
166, ngày trăng thượng huyền và hạ huyền, ngày không
trăng, ba ngày Tân mỗi tháng, nếu phạm dâm sẽ đều giảm thọ một năm.
- Vào ngày Giáp Tý, ngày Canh Thân, ngày Thái Tuế, hãy nên dâng hương,
giữ trai giới, cúng tạ Phật. Phạm dâm sẽ đều bị giảm thọ một năm.
- Vào ngày giỗ tổ tiên, sinh nhật hoặc ngày giỗ của cha mẹ, hễ phạm dâm sẽ
đều giảm thọ một năm.
- Vào sinh nhật của chính mình, của vợ hoặc chồng, nếu phạm dâm sẽ đều
giảm thọ.

165 Nhị Xã: Hai ngày Xã, tức là ngày Mậu thứ năm sau tiết Lập Xuân, Lập Thu sẽ được gọi
là Xuân/Thu Xã Nhật.
166 Tam Phục là ba thời kỳ được coi là nóng nhất trong năm. Theo Âm lịch, từ sau tiết Hạ
Chí cho đến ngày Canh thứ ba sẽ là Sơ Phục; ngày Canh thứ tư gọi là Trung Phục, từ sau
Lập Thu cho đến ngày Canh thứ nhất là Hạ Phục.
- Vào ngày Bính Đinh, ngày trời đất mở kho, hễ phạm dâm sẽ đều nhiễm
bệnh.
- Nhằm ngày hủy bại, tức là ngày Mười Tám tháng đủ, hoặc ngày Mười Bảy
tháng thiếu, hễ phạm dâm sẽ nhiễm bệnh.
- Nhằm ngày Thập Ác đại bại, tức là vào năm Giáp hay Kỷ, nhằm ngày Mậu
Tuất trong tháng Ba, ngày Quý Hợi trong tháng Bảy, ngày Bính Thân trong tháng
Mười, ngày Đinh Hợi tháng Mười Một. Năm Ất hoặc Canh thì là ngày Nhâm
Thân trong tháng Tư, ngày Ất Tỵ trong tháng Chín. Năm Bính hoặc Tân thì là
ngày Tân Tỵ tháng Ba, ngày Canh Thìn của tháng Chín, ngày Giáp Thìn của tháng
Mười. Năm Đinh hoặc Nhâm không có ngày kỵ. Năm Mậu hay Quý thì là ngày
Kỷ Sửu tháng Sáu. Những ngày ấy đều rất xấu, hãy nên kiêng dâm!
- Ngày Âm Thác, tức ngày Canh Tuất tháng Giêng, ngày Tân Dậu tháng Hai,
ngày Canh Thân tháng Ba, ngày Đinh Mùi tháng Tư, ngày Bính Ngọ trong tháng
Năm, ngày Đinh Tỵ tháng Sáu, ngày Giáp Thìn tháng Bảy, ngày Ất Mão tháng
Tám, ngày Giáp Dần tháng Chín, ngày Quý Sửu tháng Mười, ngày Nhâm Tý
tháng Mười Một, ngày Quý Hợi tháng Chạp, những ngày ấy khí Âm không đủ,
đều nên kiêng dâm.
- Ngày Dương Thác, tức là ngày Thân và Dần trong tháng Giêng, ngày Ất
Mão trong tháng Hai, ngày Giáp Thìn trong tháng Ba, ngày Đinh Tỵ trong tháng
Tư, ngày Bính Ngọ trong tháng Năm, ngày Đinh Mùi trong tháng Sáu, ngày Canh
Thân trong tháng Bảy, ngày Tân Dậu trong tháng Tám, ngày Canh Tuất trong
tháng Chín, ngày Quý Hợi trong tháng Mười, ngày Nhâm Tý trong tháng Mười
Một, ngày Quý Sửu trong tháng Chạp. Những ngày ấy, khí Dương không đủ, đều
nên kiêng dâm.
Nhận định: Những giới kỳ đã nêu trên đây, mỗi năm đều dựa theo Thời Hiến
Thư để dựa theo từng tháng mà chép rõ ra, kẹp vào sách này hòng tuân theo cấm
giới.
(3) Vào lúc thiên kỵ nên kiêng dâm:
- Khi nắng gắt, hoặc lúc giá buốt. Hễ phạm phải sẽ mắc bệnh ngặt, chẳng
chữa được.
- Khi gió bão, giông tố, trời đất tối tăm, lúc nhật thực, nguyệt thực, lúc cầu
vồng hiện ra, lúc mặt đất rúng động, phạm dâm sẽ sanh ra quái vật, mất mạng.
- Vào lúc ban ngày, hoặc dưới trăng sao, trước ánh đèn mà phạm dâm sẽ đều
bị giảm thọ.
(4) Chỗ địa kỵ hãy nên kiêng dâm:
- Trong phạm vị của miếu, đền, chùa, quán, điện thờ. Phạm dâm [ở nơi ấy]
sẽ bị giảm lộc và thọ rất lớn.
- Bên cạnh giếng, bếp, nhà vệ sinh, vườn hoang, mồ mả, xác chết, quan tài.
Phạm dâm nơi đó sẽ có ác thần nhập thai, sanh ra quái vật, mất mạng!
(5) Đối với chuyện nhân kỵ, nên kiêng hành dâm:
- Khi uất hận, giận dữ khiến gan bị tổn thương. Phạm dâm ắt bị bệnh.
- Khi đi xa, ân ái rồi đi xa trăm dặm sẽ bị bệnh. Khi vượt trăm dặm rồi ân ái
sẽ chết.
- Khi uống say, ăn no mà ân ái, ngũ tạng sẽ bị đảo lộn.
- Khi đói bụng mà ân ái sẽ tổn thương nguyên thần.
- Sau khi bệnh, phạm dâm thì biến chứng sẽ trở lại.
- Khi có thai mà hành dâm sẽ tổn thương thai nhi. Vì thế, sau khi biết có thai,
hãy nên ngủ riêng, tuyệt dục. Một là nghiêm ngặt tuân thủ giáo huấn về thai sản,
không lo bị đọa thai, cũng như trẻ nhỏ bị nhiễm các bệnh độc từ trong thai, sanh
ra các chứng bệnh đậu nguy hiểm, kinh phong, cam tẩu mã v.v… Hai là đứa con
sanh ra, con trai ắt đoan nghiêm, chững chạc, gái ắt trinh lương, nhỏ nhẹ, hiền
dịu, tự nhiên chẳng phạm lỗi dâm dật.
- Trong vòng mười ngày sau khi sanh mà ân ái, ắt vợ phải chết. Trong vòng
một trăm ngày mà ăn nằm, ắt vợ mắc bệnh.
- Khi có kinh nguyệt, hành dâm sẽ trở thành chứng bần huyết, nam nữ đều
bị bệnh.
- Chiếu tre: Tánh của trúc là lạnh mát. Hành dâm trên chiếu tre dễ bị cảm
nhiễm khí lạnh.
- Mền mỏng: Hành dâm sẽ bị hơi lạnh thấu xương.
- Nên tránh để cửa sổ có gió lọt qua khe, thức khuya nên kiêng hành dâm. -
Vừa giao hợp xong, con thơ khóc nỉ non bên cạnh, chớ cho nó bú.
- Giao hợp xong, chớ quạt ngay, và uống nước trà lạnh, vì nếu bị lạnh, có
thể bị chết ngay.
- Một đêm chớ giao hợp hai lần.
- Đừng uống những thứ thuốc kích dục.
- Đừng kềm hãm không xuất tinh.
- Khi ngã bệnh, nổi ghẻ chốc, lở loét, lên đậu, trừ phi đã bình phục hoàn
toàn, vàn muôn phần đừng hành dâm. Nếu trái phạm, quá nửa sẽ bị chết!
- Khi bị bệnh mắt chưa khỏi, hoặc vừa mới lành, phạm dâm ắt sẽ bị mù.
- Khi bị bệnh hư lao, tuy đã dưỡng bệnh lành mạnh, vẫn nên đoạn dục một
năm. Nếu nghĩ là đã lành bệnh bèn phạm dâm, quá nửa ắt phải chết.
- Thương tổn gân cốt: Sau khi đã lành, vẫn phải kiêng dâm một trăm bảy
mươi hoặc một trăm tám mươi ngày. Nếu chưa quá trăm ngày, phạm phải phòng
sự, ắt sẽ chết. Dẫu sống sót, ắt cũng đến nỗi tàn phế.
- Quá vất vả, quá lo lắng, quá nóng, quá sợ hãi, quá ưu sầu, đều chớ nên
phạm dâm. Hễ phạm dâm, ắt sẽ thành bệnh dây dưa. Nặng thì sẽ chết ngay.
Xét những kỳ hạn kiêng hành dâm theo từng tháng cũng như những ngày
kiêng kỵ về khí trời hoặc con người đã nêu trên đây ra, mỗi tháng còn có sáu bảy
ngày chẳng có mảy may nào vi phạm. Nếu nói theo người biết giữ gìn thân thể,
mỗi tháng chỉ nên ân ái tối đa ba bốn lần, sẽ có thể chẳng bị bệnh tật, tinh thần
mạnh mẽ, vững vàng. Hơn nữa, kẻ ít dục sẽ có nhiều con trai. Về sau, thân thể
của người ấy cũng mạnh mẽ. Những kẻ trẻ tuổi vừa mới lấy vợ, thường buông
lung dục vọng hại thân, khiến cho niềm hòa hợp trăm năm trong nhất thời bị diệt
sạch sành sanh, rất đáng đau buồn! Sao bằng kính cẩn vâng giữ giới kỳ (những
kỳ hạn nên kiêng hành dâm), giữ thân lập mạng, ngõ hầu mai sau được hưởng
niềm vui tề mi giai lão, may mắn lắm cháu đông con, sung sướng chi bằng?
CẦU TỰ
Bảo thân quảng tự yếu nghĩa
(nghĩa lý chánh yếu để giữ gìn thân thể, đông con cháu)
Chử Thượng Thư luận về chuyện đông con lắm cháu như sau:
- Người xưa nam tử ba mươi tuổi lấy vợ, nữ nhân hai mươi tuổi lấy chồng, vì
muốn cho Âm Dương đã hoàn thiện, đầy đủ. Vì thế, hễ ăn nằm bèn có thai, có
thai bèn sanh con, con sanh ra sống lâu. Đời sau chẳng thể tuân theo lệ ấy, nam
chưa đầy mười sáu tuổi, nữ chưa tròn mười bốn, đã sớm lõi đời! Do ngũ tạng có
chỗ chưa vẹn đầy, mai sau ắt sẽ mắc bệnh quái lạ! Vì lẽ này, có kẻ sanh nhiều lần
mà con không nuôi được, nhân dân phần nhiều chết yểu! Nói chung là vì chẳng
biết đạo làm cha mẹ của kẻ khác. Đạo này có mối quan hệ chẳng nhỏ, thế nhưng
kẻ làm cha chẳng tiện dạy con, người làm thầy chẳng tiện truyền cho trò. Về sau,
mới nhận biết, hối hận thì đã muộn mất rồi.
Tôi đặc biệt nói thô thiển như vậy, muốn cho những kẻ trẻ tuổi đều biết.
Phàm là con gái, từ mười bốn tuổi trở đi, mỗi tháng đều có kinh nguyệt một lần,
[kéo dài] ba ngày mới hết. Nói chung, cứ ba mươi ngày có kinh một lần là bình
thường. Nếu hai mươi mấy ngày đã có kinh, hoặc ba mươi mấy ngày mới có, tức
là kinh nguyệt chẳng điều hòa, phần nhiều sẽ khó có con! Vì thế, cần phải uống
thuốc trước để điều hòa kinh nguyệt. Kinh nguyệt đã đều đặn rồi vợ chồng mới
hòa hợp. Cần phải đợi sau khi ba ngày kinh nguyệt đã sạch thì mới có thể ân ái.
Viên Liễu Phàm nói: “Phàm là phụ nữ khi kinh nguyệt sắp chấm dứt [mỗi tháng],
sẽ có một ngày rạo rực, tức là ý xuân dấy động, nhưng thẹn thùng không chịu nói.
Người làm chồng thường ngầm nói với vợ, để đến khi ấy vợ sẽ tự cho biết, có thể
vừa ân ái bèn đậu thai”.
Trương Cảnh Nhạc
 nói: “Nam nữ giao cấu, kết thành thai, tinh và huyết
vẫn là vật hữu hình thuộc về hậu thiên, nhưng có một điểm khí tiên thiên vô hình
xen vào thì sau đấy sẽ kết thành thai. Khí tiên thiên của nam tử mạnh hơn, phần
nhiều sẽ sanh con trai. Khí tiên thiên của nữ nhân mạnh hơn, phần nhiều sẽ sanh

 Trương Cảnh Nhạc (1563-1642) tên thật là Giới Tân, tự là Cảnh Nhạc, biệt hiệu là Hội
Khanh, là người thuộc xứ Sơn Âm, huyện Cối Kê (nay là huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết
Giang) là một y gia lỗi lạc đời Minh. Ông vốn quê quán ở Miên Trúc, Tứ Xuyên, nhưng do
tổ tiên có quân công, đời đời được làm Chỉ Huy Sứ huyện Thiệu Hưng, nên tổ phụ dời sang
Thiệu Hưng sinh sống. Từ nhỏ, ông đã học Hoàng Đế Nội Kinh từ cha, bái danh y Kim Mộng
Thạch làm thầy. Ông cũng rất ưa thích binh nghiệp và kiếm thuật, từng đầu quân trong
chiến dịch đánh Triều Tiên của nhà Minh. Sau khi thất bại trên đường binh nghiệp, ông
mới chuyên tâm nghiên cứu y học. Điểm đặc sắc nhất trong luận thuyết y học của ông là
dùng kinh Dịch để nghiên cứu và giải thích y học. Tác phẩm y học nổi tiếng nhất là bộ Loại
Kinh.
con gái. Ngay trong lúc hai loại khí ấy cùng tụ hội, tinh huyết được bẩm thụ loại
khí nào, sẽ chia thành trai hay gái. Nhưng nữ tử chẳng phải là lúc dục tình đạt đến
cực hạn, sẽ chẳng tiếp nhận [hai loại khí ấy]. Hễ đạt đến [mức cực hạn của dục
tình], tử cung sẽ mở ra, tiếp nhận [tinh và khí] để thụ thai. Chỉ sợ tinh của người
đàn ông yếu ớt chẳng thể đậu thai được, cho nên dẫu làm chuyện ân ái mà vô
dụng! Vì thế, tốt nhất là hãy giữ cho tinh sung mãn vài tháng rồi mới ăn nằm”.
Cổ nhân nói: “Ít ham muốn sẽ sanh được nhiều con” chính là ý này.
Bậc trung là đợi sau khi người nữ đã sạch kinh nguyệt mới ăn nằm, hoặc là
trong đêm trăng sáng, không mưa gió cũng được. Thường ngày chẳng gần nữ thân,
ngủ riêng khác phòng, hoặc nằm khác giường, đắp mền riêng. Không chỉ là dễ
sanh con, mà còn có lợi cho thân thể của chính mình.
Nếu là bậc hạ thì bất cần thời tiết, ngày giờ, hoặc dăm ba đêm một lần, kẻ
ấy ắt sẽ thành bệnh nội thương. Lại còn kẻ thấp kém hơn nữa, đêm nào cũng làm
một lần, hoặc một đêm làm hai lần. Những gã vong mạng như thế, nhất định là
tinh loãng như nước, chẳng bao lâu sẽ mắc bạo bệnh, chết ngắc.
Phàm là những hôm trước và sau ngày Mồng Một và Rằm, chớ nên hành
dâm. Canh năm, nửa đêm, khí Dương trong thân mới sanh, hành dâm một lần sẽ
giống như làm trăm lần, chớ nên làm! Thân bị bệnh nhẹ, chớ nên ăn nằm ([nếu cứ
làm bừa], bệnh nhẹ biến thành nặng, bệnh nặng ắt sẽ chết). Sau khi uống say, khi
ngồi thuyền, đi đường, trong vòng đôi ba ngày, chớ nên [hành dâm]. Gió to, sấm
lớn, quá nóng, quá lạnh, lúc nhật thực, nguyệt thực, trước chỗ thờ thần, phía sau
quan tài, trong khi trai giới để cúng bái, chỗ có mặt trời, mặt trăng, đèn đuốc chiếu
sáng, đều chớ có nên [hành dâm]. Nhằm ngày Canh Thân, ngày Giáp Tý, nhằm
sinh nhật của chính mình, ngày Hai Mươi Tám mỗi tháng (đó là ngày các vị nhân
thần nhóm họp tại cõi Âm) đều chớ có nên!
Nếu nam nữ giao cấu, và sau khi mộng tinh, trong dăm ba ngày, đừng xuống
chỗ nước lạnh, chớ nên ăn hết thảy những thứ cơm canh nguội lạnh, chớ nên uống
các loại thuốc có tánh lạnh. Nếu có bệnh bắt buộc phải uống thuốc, hãy nên nói
rõ với thầy thuốc, giống như phụ nữ có thai, không thể hoàn toàn trông cậy vào
sự chẩn mạch được, ngõ hầu khỏi bị hỏng chuyện. Ngày nóng, chớ nên tham chất
lạnh; trời lạnh, chớ nên xông mưa đột gió. Nếu phạm phải, ắt sẽ bị chứng quyết
âm, tức là nam bị teo dương cụ, nữ bị teo vú, tứ chi lạnh ngắt, đau bụng mà chết.
Dẫu có đổ sâm, cũng không cứu nổi! Khi nữ nhân có kinh, cơ thể hư nhược, những
sự cấm kỵ cũng giống như thế.
Nếu như bị sảy thai, quá nửa là do vợ chồng không cẩn thận. Có thai năm ba
tháng mà bị sảy, người ta dễ biết. Chứ trong vòng một tháng hoặc nửa tháng bị
sảy thai, nhiều người không biết. Ấy là vì [đậu thai] một tháng, thuộc về gan, gan
chủ trì sự tiết dịch. Vợ chồng chẳng cẩn thận, thường có trường hợp nửa tháng đầu
thụ thai, nửa tháng sau sảy thai mà không biết. Thậm chí có người có thai rồi sảy
thai nhiều lần, can mạch nhiều lần bị thương tổn, cho đến có kẻ suốt đời chẳng
thể mang thai! Phụ nữ sau khi có thai, hãy kiêng dè cẩn thận, đừng phạm, trăm lần
chẳng sai một. Huống chi con ở trong bụng, cậy vào kinh huyết của mẹ điều
dưỡng. Cứ một lần giao cấu, thai nguyên sẽ bị tổn thương một lần. May mắn sanh
được con, ắt nó sẽ lắm bệnh, ắt bị bệnh đậu nguy hiểm, rất khó nuôi khôn lớn.
Người yêu thương con cái trong cõi đời, hãy đề phòng, gìn giữ nhiều cách,
cho tới lúc nó mười sáu, mười bảy tuổi, về căn bản là chẳng bị tổn thương, suốt
đời ít bệnh. Phải biết từ lúc trong bụng mẹ, đã sớm bị thảm thương, khi sanh ra,
sẽ chẳng thành người; đấy là lỗi của ai? Há chẳng đau đớn ư? Có kẻ còn nghiền
nát dược hoàn bỏ vào tử cung để gieo giống, há chẳng phải là trong tinh huyết
càng chứa thêm những chất cặn bã ư? Cổ nhân nói: “Gieo giống để sanh con, sẽ
chết vì đứt gân, thấu xương. Hơn nữa, gieo giống chưa chắc đã sanh được, sanh
được chưa chắc đã nuôi được, uổng công tạo oan nghiệt!” Những điều ấy đều
[những lẽ trọng yếu] trong đạo làm cha mẹ. Xưa kia, tôi thích nói [những điều
này] cùng người khác, nay đã già rồi, không thể nói trọn khắp được nữa. Viết
thành lời này để thay cho việc nói trực tiếp. Người đời ai nấy đều biết dùng lòng
yêu thương chính mình để yêu thương con cái vậy.
* Tôn chân nhân nói:
- Thân người chẳng phải do vàng sắt đúc thành, mà là cái thân do khí huyết
kết thành. Người đối với sắc dục không thể tự tiết chế, thoạt đầu nói là “chẳng trở
ngại”, đôi khi buông thả thì [thân thể] đã tổn thương theo thời gian, tinh tủy thiếu
hụt, khí huyết suy bại, cái thân phải chết. Bởi lẽ, khí huyết của con người vận
chuyển theo sáu kinh (Thái Dương, Dương Minh, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu
Âm, Quyết Âm. Đó gọi là “lục kinh”), mỗi ngày chuyển theo một kinh. Sáu ngày
bèn trọn khắp sáu kinh. Vì thế, cảm mạo bên ngoài là nhẹ nhất, ắt là sau bảy ngày,
đổ mồ hôi rồi sẽ hết bệnh. Đấy là vì khí huyết đã chuyển hết một vòng.
Khi con người dục sự đang nồng, chẳng tránh khỏi tim đập mạnh, toát mồ
hôi, thân nóng bừng, thần trí mơ hồ. Ấy là vì các đốt xương mở ra, gân mạch, lỏng
lẻo. Tinh tủy đã tiết ra, khí huyết nơi một kinh bị thương tổn. Một kinh đã tổn
thương, ắt phải đợi bảy ngày sau, khí huyết mới lại chuyển vận đến kinh ấy thì
mới có thể hồi phục như cũ. Kinh Dịch nói: “Thất nhật lai phục”, có nghĩa là
phải nghỉ ngơi, dưỡng sức bảy ngày [sau khi đã hành dâm]. Người đời chưa đến
bảy ngày đã lại xuất tinh, khí huyết nơi kinh lạc chẳng thể phục hồi như cũ. Đã bị
thương tổn, lại bị thương tổn thêm, đến nỗi ngoài là cảm nhiễm, trong thì thiếu
hụt, trăm thứ bệnh đều cùng dấy lên. Con người luôn đổ lỗi cho thời tiết, khí hậu,
cho rằng bị bệnh là lẽ đương nhiên, chẳng biết nguyên do không phải là một sớm
một chiều mà ra! Nguồn gốc bệnh tật là do từ từ tạo thành vì chẳng thể cẩn thận
giữ gìn nghĩa lý “bảy ngày giáp vòng trở lại”.
Nay lập hạn chế, hãy nghĩ tới căn bản điều độ dục vọng, gìn giữ thân thể.
Thuở hai mươi tuổi, lấy bảy ngày một lần làm chuẩn. Khi ba mươi tuổi, lấy mười
bốn ngày một lần làm chuẩn. Lúc bốn mươi tuổi, hãy nên hai mươi tám ngày một
lần. Khi năm mươi tuổi, hãy nên bốn mươi lăm ngày một lần. Tới lúc sáu mươi
tuổi, thiên quý (tinh thủy) đã tuyệt, chẳng thể phát sanh nữa, hãy gấp nên đoạn
sắc dục, dứt bặt chuyện phòng the, kiên cố tinh tủy. Lấy sự thanh khiết, bế tàng
làm gốc, muôn vàn chớ nên cho nó tiết ra. Số ngày hạn chế như đã nói trên đây là
nói theo hai mùa Xuân và Thu, chứ trong hai mùa Đông và Hạ, [hành dâm vào
mùa Hè] sẽ khiến cho hỏa bốc lên hết sức nóng, tinh tiết ra chẳng còn sót gì. Hai
là [hành dâm vào mùa Đông] khiến cho Thủy bị cực hàn. Hãy nên bế tinh, tàng
khí nghiêm ngặt.
Dẫu trong độ tuổi thiếu niên, cũng nên lấy chuyện đoạn dục làm chủ yếu.
Nếu không, lúc hai mươi tuổi, có thể mười bốn ngày một lần. Khi ba mươi tuổi,
có thể hai mươi tám ngày một lần. Lúc bốn mươi tuổi, có thể bốn mươi lăm ngày
một lần. Tới khi năm mươi tuổi, khí huyết suy giảm hết sức lớn, vào mùa Hạ có
thể là sáu mươi ngày một lần. Mùa Đông, hãy nên cẩn thận gìn giữ [chẳng dâm],
chẳng để xuất tinh. Bởi lẽ, khí của trời đất và con người được phong bế hết sức
kín vào mùa Đông, chuyên để làm cội gốc phát khởi cho mùa Xuân, càng quan
trọng hơn mùa Hạ gấp mười lần. Người tuân theo cách thức này, có thể chẳng có
bệnh, tăng thọ. Kẻ trái nghịch điều này, ắt sẽ lắm bệnh, giảm thọ.
* Vương Liên Hàng nói:
- Xưa kia, Liên Trì đại sư bảo Vương Đại Khế; “Công khai bỏ thuốc độc vào
thức ăn dở tệ chính nỗi thê thảm của sự giết hại. Ngấm ngầm bỏ thuốc độc vào
thức ăn ngon lành chính là nỗi thảm của lòng dục”. Ôi chao! Từ xưa tới nay, bậc
tài năng, người đầy chí hướng có chí nguyện đẹp đẽ, phần nhiều chẳng thọ là vì
đa dục mà nên nỗi! Trước đó, những người ấy cũng biết tự yêu thương chính mình;
sau khi xảy ra chuyện, họ cũng biết hối tiếc. Nhưng đến khi dục tâm vừa hừng,
chí khí mạnh mẽ mất sạch! Cứ ngỡ làm một lần cũng chẳng sao; sau này, sẽ chẳng
làm nữa. Đến nỗi nhiều lần đều nghĩ như thế, dục vọng buông lung càng thịnh,
đến nỗi chẳng thể tự khống chế, chẳng biết làm sao được nữa? Vì thế, tinh cạn
kiệt, thân thể yếu đuối, bệnh tật, chết mất. Chuyện biết tự thương mình thuở trước
đã thành vô dụng, mà chuyện đã xảy ra rồi, dẫu tiếc nuối cũng chẳng kịp! Hãy
nên ngăn dứt ân ái, tận lực suy nghĩ chuyện ấy có gì thật sự là vui thú? Xong
chuyện, sẽ có ương hại gì? Khôn ngăn cười khan, ủ rũ, uể oải. Ngăn dứt dục vọng
một chốc, hòng mở rộng cái chí một đời. Bậc tài năng chí sĩ sẽ vui vẻ thuận theo.
Còn những kẻ cam lòng làm phường hạ lưu, sẽ tự rút ngắn mạng sống, tôi chẳng
biết làm như thế nào? Kính cẩn noi theo lời dạy của Liên Trì đại sư, rõ ràng là
nhằm dạy những kẻ đã giữ Tam Quy, Ngũ Giới. Ngài răn nhắc tiết dục, tức là
chẳng vì những kẻ tà dâm, [ý nghĩa ấy] cũng rõ lắm thay! Nói chung, phóng túng
lòng dục sẽ gây thành họa hoạn. Đối với vợ của chính mình mà còn như thế, vậy
thì những phường phóng đãng, săn đuổi sắc đẹp, ắt càng tự chuốc lấy nỗi diệt
vong, cam tâm luân lạc trong loài súc sanh, chẳng đáng buồn ư?
PHỤ LỤC
Tích tự do kết hôn tà thuyết văn
(bài văn đả phá tà thuyết tự do kết hôn)
Con người bẩm thọ khí Âm Dương của trời đất, bẩm thọ chất liệu tinh huyết
của cha mẹ mà sanh. Từ lúc mới sanh ra cho đến ba, bốn tuổi, nhất cử nhất động
đều cần phải do cha mẹ dưỡng dục. Sau đấy, tuy có thể tự hành động, nhưng đối
với các sự lý, đều cần phải nhờ cha mẹ sắp đặt, dạy bảo. Nếu không, sẽ chẳng thể
sống sót trong cõi đời. Tới khi khôn lớn, được cha mẹ chọn người phối ngẫu, ngõ
hầu hưởng niềm hạnh phúc gia đình, những mong trong ngoài giúp đỡ lẫn nhau,
có thể phụng dưỡng cha mẹ hòng tròn hết phận làm con, nối tiếp dòng giống,
phòng khi già, chết. Đấy chính là đạo đương nhiên trong trời đất, là lễ nghi do
thánh nhân vâng theo lẽ trời chế định, những mong ai nấy vâng giữ lẽ thường, trọn
hết đạo làm người và đạo làm con. Nếu chẳng thuận theo lễ pháp của thánh nhân
và mạng lệnh của cha mẹ, chỉ vì tình cảm mê luyến giữa đôi bên mà kết thành vợ
chồng, ắt chẳng khác gì cầm thú! Những kẻ chẳng biết tốt xấu, chuyên bắt chước
thói xấu ác của Âu châu, nồng nhiệt đề xướng tự do kết hôn, sao không xướng
xuất lúc mới sanh chẳng cần cha mẹ dưỡng dục, dạy bảo, cứ để cho con tự do
trưởng thành làm người? Nếu họ vừa sanh ra trong cõi đời, đã có thể tự do trưởng
thành, trọn chẳng cần cha mẹ nuôi nấng, dạy dỗ, ắt cứ tự do kết hôn, đúng là sự
lý hết sức thích đáng vậy! Nếu chẳng thể như thế, chỉ có khi trưởng thành là có
thể tự lực dốc sức lấy tình yêu nam nữ làm tiêu chuẩn, tức là kẻ có tội cực nặng,
nghịch trời, trái lý, khinh miệt thánh nhân, coi rẻ luân thường vậy! Tâm hạnh ấy
giống như cầm thú! Thật ra, chẳng bằng cầm thú, vì sao? Do cầm thú chẳng biết
luân lý, con người biết luân lý. Con người biết luân lý mà phế trừ luân lý, sẽ phải
ở dưới loài cầm thú. Cư sĩ Chương Phủ Dương Chung Ngọc ở Vô Tích muốn cứu
vãn phong tục suy đồi, bèn viết bài văn đả phá thói tự do kết hôn; do vậy, tôi viết
lời tựa dẫn nhập, hòng phát khởi những kẻ chưa phát khởi cái tâm, mong sao
những người đề xướng thuyết ấy đều giác ngộ.
Triệu Thiệu Y ở Cổ Tân đề tựa.
Thế tục bừng bừng đề xướng tự do kết hôn, đấy là hành vi của phường phóng
đãng, dâm nữ, là phương cách để xói mòn lễ nghĩa, rối loạn sự khu biệt trong
ngoài giữa nam và nữ, chính là cái thói “khoét vách, vượt tường” từng bị Mạnh
Tử quở trách. Dân ca nước Trịnh chê trách chuyện hái lan, tặng hoa thược dược.
Chưa hề có bậc đoan chánh, cẩn trọng, cũng như hạng nữ nhân hiền thục, trinh
tĩnh đề xướng tự do kết hôn. Xin luận định rộng hơn. Khúc Lễ nói: “Nam nữ bất
tạp tọa, bất thân thọ, ngoại ngôn bất nhập ư khổn, nội ngôn bất xuất ư khổn. Nam
nữ phi hữu hành môi, bất tương tri danh. Phi thọ tệ, bất giao, bất thân” (Nam nữ
chẳng ngồi lẫn lộn, chẳng nắm tay. Lời bên ngoài chẳng lọt vào chỗ khuê các. Lời
trong buồng thêu chẳng lọt ra ngoài167F
168. Nam nữ nếu không qua mai mối, chẳng
biết tên nhau. Chưa nhận sính lễ, sẽ chẳng giao du, thân thiết). Vì thế, đối trước
nhật, nguyệt để thưa trình, trai giới tâu bày cùng quỷ thần, bày tiệc rượu mời mọc
láng giềng, bè bạn [để tổ chức hôn lễ], hòng nhấn mạnh sự khác biệt giữa nam và
nữ. Như thế thì nam nữ cách biệt tỵ hiềm đã càng rõ ràng! Chuyện phi lễ chớ nên
thấy, nghe, nói, nghĩ! Há có chuyện tự do kết hôn?
Khổng Tử dạy: “Phóng Trịnh thanh, Trịnh thanh dâm” (Bỏ dân ca nước
Trịnh vì dân ca nước Trịnh dâm đãng), vì Ngài ghét người nước Trịnh chẳng tách
biệt nam nữ. Mạnh Tử nói: “Trượng phu sanh nhi nguyện vi chi hữu thất. Nữ tử
sanh nhi nguyện vi chi hữu gia. Bất đãi phụ mẫu chi mạng, môi chước chi ngôn,
tắc phụ mẫu quốc nhân giai tiện chi” (Nam tử sanh ra mong cho có vợ, con gái
sanh ra mong cho có chồng, chẳng đợi lệnh cha mẹ, chẳng thông qua lời mai mối
[mà tự tiện chung chạ], ắt cha mẹ, người dân trong nước đều coi thường), [vậy thì]
những kẻ kém hèn, [tự do chung chạ], quên bẵng cha mẹ, ắt liêm sỉ càng hiếm
hoi hơn! Lại nói: “Nhân sở dĩ dị ư cầm thú giả cơ hy!” (Con người chẳng khác
cầm thú cho mấy). Bởi lẽ, cầm thú đều là tự do luyến ái. Do con người là “vạn
vật chi linh”, nên thánh nhân lập ra lễ nghĩa, hòng khác xa cầm thú, sao lại phế
bỏ? Chương Hôn Lễ [trong sách Lễ Ký] nói: “Phụ thân tiếu tử, nhi mạng chi thân
nghênh. Ấp nhượng thăng đường, tái bái điện nhạn” (Cha vì con dâng rượu cáo
tế quỷ thần, tổ tiên, sai con đi rước dâu. [Đến nhà gái], vái chào, nhường nhau
bước lên thềm vào nhà, rồi lại dâng sính lễ). Ấy là vì [kết hôn] là đích thân vâng
theo lời cha mẹ dạy vậy. Nam nữ có phận sự khác biệt, cho nên sau đấy mới có
nghĩa vợ tình chồng. Chương Giao Đặc Sanh [của sách Lễ Ký] chép: “Phụ nhân
tùng nhân giả dã, ấu tùng phụ huynh” (Phụ nữ phải nương tựa người khác, thuở
trẻ bèn nương cậy cha, anh). Vậy thì nam lẫn nữ đều nghe lệnh cha, anh, há có
chuyện tự do kết hôn? Phần Nội Tắc [trong Lễ Ký] chép: “Thất niên nam nữ bất
đồng tịch, bất cộng thực” (Nam nữ từ bảy tuổi trở lên không ngồi cùng chiếu,
không ăn chung). Lại nói: “Lễ thỉ ư cẩn nội ngoại. Nam tử cư ngoại. Nữ tử cư nội.
Thâm cung, cố môn, hôn tự thủ chi” (Lễ bắt nguồn từ sự cẩn trọng phân biệt trong
ngoài. Nam ở bên ngoài, nữ ở bên trong. Trong cung cấm, cửa nẻo nghiêm ngặt,
có các hoạn quan canh giữ). Lại nói: “Nam bất ngôn nội, nữ bất ngôn ngoại. Nam
tử nhập nội, bất khiếu bất chỉ. Nữ tử xuất môn, tất ủng tế kỳ diện, đạo lộ nam tử
do tả, phụ nhân do hữu”(Nam chẳng nói đến chuyện trong khuê phòng, nữ chẳng
 Trịnh Huyền chú giải câu này có nghĩa là nam nữ có trách nhiệm khác biệt, vợ không
can thiệp vào con đường sự nghiệp của chồng, chồng phải coi trọng quyết định nuôi dạy
con cái, chăm sóc gia đình của vợ.
nói đến chuyện bên ngoài. Đàn ông [có chuyện cần phải] vào trong khu vực của
phụ nữ, không gây ồn náo, không chỉ trỏ. Nữ nhân ra khỏi cửa, ắt phải che mặt.
Trên đường sá, nam đi bên trái, nữ đi bên phải). Sự tách biệt nam nữ bắt nguồn từ
gia đình cho đến ngoài đường phố, giữ nghiêm cẩn trong ngoài như thế, há có
chuyện tự do kết hôn?
Hơn nữa, cưới vợ nhằm phụng dưỡng cha mẹ. Bài thơ Thường Lệ trong kinh
Thi có câu: “Thê tử hảo hợp, như cổ sắt cầm” (Vợ chồng hòa hợp như gảy đàn
sắt, đàn cầm). Khổng Tử nói: “Phụ mẫu kỳ thuận hỹ hồ!” (Cha mẹ ắt chẳng vui
lòng ư?) Thiên Nội Tắc [trong sách Lễ Ký] nói: “Tử thậm nghi kỳ thê, phụ mẫu
bất duyệt xuất, tử bất nghi kỳ thê. Phụ mẫu viết: Thử thiện sự ngã, tử hành phu
thê chi lễ yên” (Con rất yêu thích muốn lấy một người nữ, nhưng cha mẹ lộ vẻ
không vui thì con chẳng nên lấy cô vợ ấy. Cha mẹ bảo: ‘Đứa con gái này khéo
phụng sự ta”, con sẽ làm lễ kết hôn với cô gái ấy), dẫu đến chết, hôn nhân chẳng
suy bại! Bậc tiên triết có dạy: “Tử chi hiếu, bất như suất phụ dĩ vi hiếu. Phụ năng
dưỡng thân giả dã” (Con trai hiếu thuận, chẳng bằng dìu dắt vợ cũng hiếu thuận,
vì vợ có thể phụng dưỡng cha mẹ). Cổ nhân đều do cha mẹ chủ hôn; vì thế, có thể
khiến cho cha mẹ vui lòng, phô trọn lòng hiếu dưỡng. Kẻ chẳng thuận thảo cha
mẹ, chẳng xứng làm con. Hôn nhân là cội gốc to lớn của lễ, kẻ làm con phải có
hiếu tâm, hãy nên lấy tâm cha mẹ làm tâm của chính mình. Nếu [cưới hỏi] chẳng
do cha mẹ, chẳng cần biết đến xuất thân, phẩm đức [của người phối ngẫu], cứ nói
tự do luyến ái, ắt có khác gì gái làng chơi đón khách? Tôi chưa thấy gái làng chơi
đón khách mà có thể hiếu dưỡng cha mẹ, bố mẹ chồng!
Tà thuyết tự do trong hiện thời, trước hết là đạp đổ hôn lễ; do vậy, trái nghịch
luân thường trong trời đất! Vứt bỏ mạng lệnh của cha mẹ, đã bất hiếu, lại còn đèo
thêm bất tín, bất nghĩa. Ngàn lời vạn lẽ, đủ mọi lý do, bất quá là tự do luyến ái đó
thôi! Thử hỏi loài đội lông, mang vảy, có loài nào chẳng phải là tự do luyến ái?
Há chúng biết đến lễ nghĩa, há biết hiếu thảo cha mẹ, kính trọng bậc trưởng thượng
ư? Há có nên giống như lũ mang lông, khoác vảy ư? Hơn nữa, vợ chồng do nghĩa
mà kết hợp, chủ yếu nhằm tôn trọng cha mẹ, coi trọng sự ước hẹn, mở rộng thành
sáu lễ. Vì thế, một khi đã kết vầy loan phụng, sẽ có thể suốt đời chẳng thay đổi,
cùng chịu hoạn nạn, cùng hưởng an lạc, hiếu thảo với cha mẹ, thuận hòa với họ
hàng, nuôi nấng con cháu nên người. Nay những kẻ do tự do luyến ái mà trở thành
vợ chồng, vì trái nghịch sự tôn kính cha mẹ, khinh miệt lễ nghĩa, ắt sẽ “tiền hết,
tình cũng thôi”, nhan sắc tàn phai, tình yêu sẽ nhạt nhòa! Do từ ban đầu là tự do
kết hợp, rốt cuộc sẽ là tự do ly tán. Danh tiết vùi tận đất, xóm làng xem thường.
Bọn họ ngỡ tự do sẽ là hạnh phúc suốt đời, tôi sợ rằng do tự do chẳng chánh đáng,
phần lớn sẽ là hy sinh niềm hạnh phúc suốt đời của nam nữ, điếm nhục gia phong,
cắt đứt ân trạch nhiều đời! Vì thế nói: “Chẳng có người nam đoan chánh, cẩn
trọng, hoặc người nữ hiền thục, trinh tĩnh nào nỡ lòng xướng suất tự do kết hôn!”
Phần Đại Truyện của kinh Lễ có nói: “Nam nữ hữu biệt, bất khả dữ dân biến
cách” (Đối với sự khác biệt của nam nữ, chẳng thể để cho dân chúng thay đổi
được). Phần Giao Đặc Tánh [của Lễ Ký] chép: “Nam nữ hữu biệt, nhiên hậu phụ
tử thân” (Do nam nữ khác biệt mà sau đó mới có tình thân cha con). Bởi lẽ, có vợ
chồng rồi sau đó mới có cha con, anh em. Nam nữ chẳng khác biệt, ắt giềng mối
vợ chồng mất sạch, phế hết luân thường, con người lẫn lộn cùng cầm thú. Tự do
kết hôn để lại nỗi độc hại dường ấy, há chẳng thận trọng ư?
Nếu viện cớ Đông Tây mỗi nước khác biệt, há có biết Âu Mỹ đặc biệt chuộng
“xem nhẹ tiền tài, coi trọng đạo nghĩa”? Những điều hay đẹp của mỗi nước có thể
chọn lấy cũng nhiều lắm, sao lại riêng học theo thói không nghiêm ngặt phân biệt
nam nữ, đến nỗi kẻ chửa hoang, phá thai ngày càng lắm, hình luật chẳng thể cấm
cản, hết sức trái nghịch chủ nghĩa nhân đạo. Những năm gần đây, do dân cư nước
Pháp giảm ít, [chánh quyền] cưỡng bách hôn nhân. Vì nữ sinh sa đọa, Nhật Bản
bèn chú trọng phong hóa, kỷ cương. Xét đến nguyên nhân, đều là do dâm dật.
Nước ta, coi giáo hóa quan trọng nhất, danh tiết của phụ nữ há có nước nào sánh
bằng? Nay hãy nên chọn lấy sở trường của mỗi nước, gạt bỏ sở đoản. Chẳng nên
vứt bỏ sở trường của ta để học đòi thói dâm dật, phong tục tệ bạc của bọn họ!
Mạnh Tử nói: “Tường tự học hiệu, giai dĩ minh luân” (Các loại trường học đều
nhằm giảng rõ luân thường). Quản Tử nói: “Lễ nghĩa liêm sỉ, quốc chi tứ duy” (Lễ,
nghĩa, liêm, sĩ là bốn giềng mối của đất nước). Trộm mong giới học thuật toàn
quốc, hãy thi hành sự giáo hóa của Khổng Mạnh để giáo hóa toàn cầu, hòng đả
phá những thuyết tà vạy, dâm dật, khiến cho muôn nước được hưởng phong hóa
tốt lành, cùng hướng đến sự thịnh trị đại đồng. Chuyện này ắt phải bắt nguồn từ
ai nấy đều nói rõ luân lý, tận lực tôn sùng lễ nghĩa, liêm sỉ.
Bất Khả Lục kỷ nghiệm
(Ghi chép những chuyện linh nghiệm của bộ Bất Khả Lục)
* [Tôi có] người bạn là Quý Bang Thái, là người nổi tiếng ở Ngô Hưng, sống
tại trấn Nam Tầm. Tôi vừa mới in xong bộ Bất Khả Lục, nhằm lúc ông Quý trông
coi việc giáo dục tại huyện Trấn Hải, bèn viết thư, gởi kèm cho ông ta hai trăm
quyển, dặn hãy phân phát cho các học sinh. Sau đấy nhận được thư của ông ta
trách tôi hủ bại, viễn vông, còn nói đã đem những sách ấy xếp xó. Chưa đầy hai
ngày sau, sai người đến nói: “Nguyện in năm trăm quyển”. Tôi vin vào lời ông ta
đã nói trước đó để khước từ. Sau đấy, ông ta lại sai người cầm thư tay khẩn khoản
[cậy in], mới biết ông ta mộng thấy cha tha thiết dặn dò: “Mày không in tặng Bất
Khả Lục, con mày làm sao có thể vào trường huyện cho được?” Do vậy, nhờ tôi
in một ngàn quyển để truyền bá rộng rãi. Theo như ông ta nói, hôm nhận được
thư báo tin con được nhập học chính là ngày ông ta phát nguyện in sách, linh
nghiệm dường ấy!
* Tại Tân Kiều thuộc thành Hàng Châu, vị tăng Tĩnh Duyên thuộc Tích
Thúy Am thích làm lành. Một ngày, trời đổ tuyết lớn, sư đến gõ cửa. Tôi tưởng là
sư đến quyên mộ, thưa: “Nhà tôi nghèo hèn, không có sức giúp đỡ!” Sư bảo: “Tôi
xin mượn ván in sách Bất Khả Lục để in ra mấy ngàn quyển hòng thí tặng”. Tôi
vui vẻ nhận lời, gạn hỏi: “Do vì lẽ nào mà thầy đột nhiên dấy lên ý niệm này đội
tuyết đến đây?” Sư bảo: “Đêm qua, tôi mộng thấy thổ thần bảo: ‘In tặng Bất Khả
Lục có thể tránh khỏi tai nạn lớn’. Sáng nay hỏi thăm thí chủ khắp nơi, mới biết
[sách ấy] vốn là bản được tàng trữ tại Đàm Phủ nên đặc biệt đến mượn”. Sau khi
sư đã in tặng, năm sau, nơi sư ở bị hỏa hoạn, chung quanh đều cháy rụi, chỉ riêng
am của sư không sao, càng tin thần minh khuyến thiện rành rành chẳng sai. (Trần
Hải Thự ghi).
* Đầu mùa Hạ năm Canh Ngọ, đêm mộng thấy hai đồng tử đến bảo tôi: “Văn
Xương Đế Quân có lời mời ông”. Do vậy, cùng đi. Họ dẫn tới một tòa nhà thuộc
Trung Thúy Đình, thấy biển đề là Đại Động Các. Tôi theo đồng tử tới đại điện,
thấy Đế Quân ngồi chính giữa, tôi khấu đầu rồi đứng hầu. Đế Quân bảo: “Thế
gian tặng thiện thư rất nhiều, chỉ có Bất Khả Lục là từ lâu chưa được lưu hành.
Ông hãy vì ta lưu thông rộng rãi”. Ngài liền sai hai đồng tử khiêng ra một cái
rương, trong ấy đều là những trang giấy rách nát. Kiểm xem thì ra là những bản
tàn khuyết của Bất Khả Lục. Trong khi tôi đang suy nghĩ, chưa từng thấy sách
này, làm sao thực hiện được? Đế Quân lại khuyên dụ rằng: “Kỳ thi Hương đã gần
kề, hãy nên làm cho gấp”. Ngài truyền hai đồng tử đưa tôi ra về, bèn tỉnh giấc.
Hôm sau, truy tìm tại các xưởng in, họ đều nói không biết. Mất hơn một tháng,
chợt có người đem bản in Bất Khả Lục đến bán. Trang đầu tiên ghi lời tựa đã mất,
coi trang cuối, biết đó là bản in của tiên sinh Vạn Cửu Sa, hết sức vui mừng, mua
lấy, liền in ra ba ngàn quyển. Sáng mồng Một tháng Bảy, kiền thành đem sách
đến viện Thúy Đình. Vừa mới đến cổng, một vị tăng liền mau mắn hỏi: “Có phải
là Trần cư sĩ đến tặng Bất Khả Lục hay không?” Tôi thưa vâng, hết sức ngạc
nhiên. Tiến vào đại điện dâng hương, khấu trình dưới tòa của Đế Quân. Vị Tăng
mời vào khách đường dùng trà. Hỏi pháp danh thì ra là Nguyên Bổn. Hỏi vì sao
biết tôi đem sách đến tặng, lại còn biết tên sách? Tăng bảo: “Đêm qua nằm mộng
thấy Đế Quân dặn tôi chờ ở cửa nhận sách, nên đã dậy từ sớm để chờ”. Tôi càng
thêm tôn kính. Có thể biết là thiện thư lưu hành trong cõi đời, trên là có thể cảm
thấu trời cao, mà người tận lực dùng thân thực hiện những điều chỉ dạy trong sách,
công đức ấy chẳng thể lường được! Kính mong [mọi người] hãy cùng thấu hiểu
nỗi khổ tâm cứu đời của Đế Quân hòng cùng lên bè báu. Ngưỡng mong hãy lưu
truyền rộng rãi, ngõ hầu khắp cõi đời tận lực kiêng tránh những điều chớ nên, tận
lực thực hiện những điều nên làm, hòng chẳng phụ sự phó thác của thần minh vậy.
Tháng Sáu năm Canh Ngọ (1810) niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, cổ diêm
quan Trần Hải Thự tự ghi
* Năm Bính Tuất, em gái tôi sau khi về nhà chồng, bỗng mắc chứng đàm
giản
, thường khóc lóc, chẳng ăn uống được. Có người nói là do phạm phải Hoa
Phấn Sát
 mà ra, cầu cạnh thầy đồng cầu cúng, hóa giải trăm cách đều chẳng có
công hiệu gì. Cô ta lại chẳng chịu uống thuốc. Cả mấy người dốc hết sức, rốt cuộc
cô ta khó nuốt trôi một giọt thuốc. Cho đến sau nửa năm, thân gầy như que củi,
bố mẹ hết sức lo lắng, muôn phần lo nghĩ. Do vậy, tôi đối trước tượng Phong Đô
Đại Đế và thần Thành Hoàng, dâng sớ hứa in tặng năm ngàn quyển Bất Khả Lục.
Sau khi đã hứa nguyện, rốt cuộc có chuyển biến, cô ta bèn chịu uống thuốc. Vì
thế, uống liên tục thuốc tiêu đàm, một tháng sau, bình phục như thường. Nghiệp
đã tiêu trừ. Sau một năm nữa, cảm thấy thân thể khỏe mạnh như trước. Vì thế, tôi
dùng bản in theo lối chữ rời, sắp chữ đúng số lượng đem in để đáp tạ sự gia hộ
của thần. Kính cẩn ghi sự linh nghiệm vào đây.
Tháng Ba năm Mậu Tý (1888) niên hiệu Quang Tự đời Thanh, kẻ học trò
hối lỗi ở hạ quận Lâu Đông kính ghi.

 Đàm giản là một chứng bệnh kinh phong, co giật, do bệnh nhân có nhiều đàm, hay co
giật, nên gọi là đàm giản.
 Hoa Phấn Sát (花粉煞) là một thuật ngữ trong Đạo giáo. Các nhà Phong Thủy cho rằng
nếu phòng ở có kèo cột chạm trổ, sơn vẽ quá nhiều, quá rườm rà, người sống ở trong đó
sẽ bị xui xẻo, bệnh tật quái lạ.
Tích tự cận chứng
(Chứng cứ gần đây về quả báo do tiếc chữ)
Để khắc in sách vở, thời cổ dùng hãn giản
, về sau biến thành dùng gỗ cây
dó [làm giấy] và mực. Lại biến đổi thành khắc ván, khiến cho [việc ấn loát] khá
thuận tiện, văn tự được lưu thông càng rộng rãi hơn. Phương pháp khắc ván là
trước hết dùng giấy để viết lại [văn bản muốn in], dán lên tấm gỗ, sau đó chà sát
mặt sau giấy, khiến cho chữ dính vào ván [rồi thợ sẽ khắc chữ theo những chữ
ấy]. Giấy bị chà bỏ ấy vẫn còn hình dạng chữ viết, chớ nên khinh nhờn, làm bẩn.
Vào mùa Thu năm Ất Sửu (1805) đời Gia Khánh, tại cầu Bảo Hựu thành
Hàng Châu, có người thợ khắc họ Kim, trong khi bị bệnh, thấy hai con quỷ bắt
đi, dẫn đến bái yết một vị thần trong đại điện. Thấy thần giống như một vị quan
sang trọng. Thần bảo: “Ngươi làm ô uế giấy có chữ, theo pháp, phải trách phạt
nặng nề”. Họ Kim thưa: “Con do nghề nghiệp, chẳng thể không làm như vậy”.
Thần dạy: “Nếu chẳng phải là như vậy thì trong khi ngươi chà giấy, những mảnh
giấy rớt xuống hãy nên thu nhặt, đặt ở chỗ sạch, khi nào có dịp sẽ đốt đi. Chứ
ngươi vẫn quăng lung tung nơi bậc thềm, thậm chí quăng vào đống rác, không
chỗ nào chẳng có, chẳng phải là ô uế, khinh nhờn thì là gì?” Họ Kim không nói
gì được nữa, đành chịu phạt. Đến khi tỉnh giấc, mông và đùi đau đớn quá mức.
Ôi! Thần răn nhắc thiết tha, lại vì người làm nghề ấy, mở ra một pháp môn nhằm
tiêu trừ đầu mối gây nên tội, người ta còn sợ gì mà chẳng phụng hành ư? Do vậy,
chép lại chuyện này, xếp vào trang cuối của [bộ Bất Khả Lục], nguyện những
người làm nghề khắc chữ, thấy chuyện này như vết xe đổ trước để răn dè, kính
cẩn tuân theo lời thần dạy thì may mắn lắm thay.
Trần Hải Thự ghi
HẾT

171 Hãn giản (汗簡) là những thanh tre tươi, hơ nóng qua lửa cho chảy nhựa, rồi dùng dao
khắc chữ lên. Thuở trước khi chưa phát minh ra giấy, cổ nhân dùng phương pháp này để
ghi chép sử sách.
138
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật Tịnh Ðộ
Trên đền bốn ân nặng
Dưới cứu khổ tam đồ
Nếu có ai thấy nghe
Ðều phát lòng Bồ Ðề
Hết một báo thân này
Cùng sanh cõi Cực Lạc